Gặp Lại "O du kích nhỏ"
- Người có công
- 21:08 - 23/04/2019
Nhiệm vụ tuyệt mật
Chúng tôi tìm gặp "O du kích nhỏ" trong những ngày cuối tháng 4 lịch sử. Cách trung tâm thành phố Thanh Hóa chừng vài km, con ngõ nhỏ dẫn chúng tôi vào căn nhà cấp 4, thuộc thôn Nhữ Xá, xã Hoằng Anh (TP.Thanh Hóa)- nơi o du kích Lê Thị Thảo sinh sống cùng chồng và các con.
Lê Thị Thảo thời con gái
Nhận ra anh Lam là cán bộ chính sách xã Hoằng Anh, o Thảo nở nụ cười tươi trên đôi gò má nhăn nheo bởi tuổi tác. Được anh Lam giới thiệu có nhà báo về tìm, viết ký ức o dẫn giải giặc lái Mỹ, bao nhiêu kỷ niệm ùa về, o Thảo kể: O sinh ra và lớn lên tại thôn Nhữ Xá, xã Hoằng Anh, huyện Hoằng Hóa (nay thuộc TP.Thanh Hóa).
Năm 1965, khi đó chưa đầy 18 tuổi, nhưng phải khai tăng tuổi để được tham gia dân quân địa phương. Vào dân quân, tôi được phân công nhiệm vụ làm Trung đội phó dân quân, trực chiến đấu với các loại vũ khí K44, CKC, súng trường. Lúc bấy giờ, Thanh Hóa là tỉnh có nhiều căn cứ quân đội quan trọng, lại nằm trong vùng giáp ranh 2 đầu chiến tuyến nên là trọng điểm đánh phá ác liệt của địch. Máy bay Mỹ ngày đêm gầm rú, đánh phá các cây cầu cắt đứt huyết mạch giao thông, phá nát nhiều tuyến đường.
Tuy nhiên, quân và dân Thanh Hóa vẫn kiên cường giữ cầu, bám đất, bám đường. Lực lượng dân quân vừa tham gia chiến đấu chống lại sự phá hoại của máy bay địch, vừa đảm bảo các tuyến đường thông suốt để các đoàn xe, đoàn quân kịp thời ra tiền tuyến.
Cuối năm 1965, Mỹ ồ ạt ném bom xuống cầu Hàm Rồng, nhiều thanh niên xung phong, dân quân đã anh dũng hy sinh, tôi cùng đồng đội phải gạt nước mắt để gượng dậy chôn cất đồng đội hy sinh, rồi tiếp tục đứng dậy chiến đấu. Đến đầu năm 1966, Mỹ tiếp tục đánh mạnh ở căn cứ cầu Hàm Rồng gần nơi trung đội dân quân của o đóng quân. Để tăng cường cho lực lượng pháo binh bắn phá máy bay địch, tôi lại được điều xuống trung đoàn pháo binh, tham gia cùng đồng đội điều khiển các loại pháo 88, pháo cao xạ trên bãi khô trong 3 tháng, sau đó o lại quay về tiếp tục nhiệm vụ Trung đội phó, rồi Trung đội trưởng dân quân địa phương”.
Thời điểm tháng 3/1967, Mỹ tăng cường ném bom trên các căn cứ trọng điểm ở Thanh Hóa, đặc biệt là cầu Hàm Rồng, cầu Lèn (huyện Hà Trung), khi đó o Thảo cùng hai người ở khẩu đội nhận được nhiệm vụ của cấp trên rằng: “…Bộ đội ta đã bắn rơi máy bay Mỹ ở cầu Lèn, viên phi công Mỹ đã nhảy dù thoát thân, phải truy tìm để bắt sống viên phi công đó…”.
Nhận lệnh, o Thảo cùng hai đồng chí ở khẩu đội tức tốc lên đường. Khi o đến gần địa phận xã Hoằng Long, gần cầu Hàm Rồng, thì người dân thông báo là có một viên phi công Mỹ vừa nhảy dù xuống khu vực này. Cùng với sự giúp đỡ của nhân dân, o Thảo cùng 2 người đồng đội đã bắt và dẫn giải phi công đó về trận địa Đồng Đá nhốt vào hầm pháo kích.
O Thảo còn nhớ như in, khi đó để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho viên phi công (theo lệnh cấp trên), o đã tháo giầy, tháo tất của viên phi công, yêu ông ta phải đi thật nhanh nếu không máy bay địch lại đánh bom. Đến khoảng 12h đêm hôm đó, khi máy bay Mỹ đã ngừng ném bom, pháo của ta cũng không câu nữa, o lại nhận được lệnh đưa viên phi công đó vào trong làng trú ẩn tại trường cấp 2 (nay là Trường THCS Hoằng Anh) với nhiệm vụ: “Trên đường di chuyển phải bảo vệ tuyệt đối an toàn cho viên phí công đó”. Tức tốc o Thảo cùng hai người đồng đội dùng 2 đèn hoa kỳ (đèn thắp bằng dầu hỏa-PV), che lại rồi áp tải viên phi công đó về địa điểm trú ẩn an toàn. O đã dùng rơm làm giường để đảm bảo cho phi công được ngủ ấm.
O du kích nhỏ Lê Thị Thảo áp giải viên phi công Mỹ, đoạn đi qua cầu Hàm Rồng năm 1967.
Khoảng 5h sáng hôm sau, o lại nhận được lệnh cùng với một đồng chí bộ đội dẫn giải phi công đó về Hàm Rồng. Nói đến đây, o Thảo chỉ tay về tấm ảnh hơn 50 năm mà nhà báo Lê Lâm là người đã chụp lúc o áp giải phi công Mỹ đi qua cầu Hàm Rồng bàn giao cho cấp trên. Bức ảnh ghi dấu lịch sử được gia đình o Thảo treo trang trọng ở phòng khách, để mỗi lần nhìn là mỗi lần nhớ một quãng đời sống hết mình vì lý tưởng cách mạng.
Ngày ấy, cô gái Thảo mới gần 20 tuổi, nhỏ thó, chỉ cao 1,50m, nặng chưa đầy 40kg, nhưng cứ muốn xông pha đánh giặc. Sau khi bàn giao phi công Mỹ an toàn cho cấp trên, o Thảo lại quay về trung đội dân quân địa phương, tiếp tục chiến đấu. Đến năm 1968 o vào quân đội, đóng quân ở Trường sỹ quan phòng không không quân tại Sơn Tây, tỉnh Hà Tây (nay là Sơn Tây, TP.Hà Nội), đến tháng 10/1972 o Thảo xuất quân, chuyển ngành sang Công ty Thương nghiệp, năm 1991 o về hưu hưởng chế độ một lần.
Mong ước cuối đời
O du kích nhỏ Lê Thị Thảo ngày nào cầm súng dẫn giải viên phi công cao lênh nghênh cuối đầu bước qua cầu Hàm Rồng năm nào giờ đã gần 80 tuổi. Khác với dáng vẻ o du kích nhỏ tuổi 20 trẻ trung, xinh đẹp của năm 1967 hiên ngang đi bên giặc lái Mỹ, mái tóc o Thảo nay đã bạc và thân hình không còn “nhỏ bé” nhưng gương mặt o thì không lẫn đi đâu được, hiền hậu mà cương nghị. O Thảo có 2 người con trai đã yên bề gia thất, chồng o cũng tham gia quân đội xuất ngũ năm 1986.
O du kích Lê Thị Thảo cùng chồng mong ước được gặp lại viên phi công Mỹ dù chỉ 1 lần
Chiến tranh đã lùi xa, giữa hai nước Việt Nam và Mỹ đã bước sang một trang sử mới với mối quan hệ thân thiện. O du kích nhỏ ngày nào giờ đang hưởng chọn niềm vui, hạnh phúc tuổi già bên gia đình, đã là một người bà rất mực chu đáo và thương yêu con cháu. Nụ cười đã thanh thản trên gương mặt ở tuổi xế chiều, nhưng o Thảo vẫn mong ước có một “phép màu” để thỏa ước nguyện vọng là được một lần gặp lại viên phi công ngày nào o đã áp giải, bảo vệ an toàn cho ông, dù đến bây giờ o Thảo vẫn chưa biết viên phi công đó tên gì?. Nguyện vọng của o Thảo là rất đáng trân trọng, mong sao o sớm có thông tin để gặp được viên phi công Mỹ để chọn tâm nguyện cuối đời.
Được trò chuyện, được nghe o du kích nhỏ Lê Thị Thảo tái hiện lại bức tranh ngày nào gian khổ, mất mát, đầy đau thương nhưng oai hùng và kiêu hãnh của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống Mỹ. Có lẽ những thế hệ trẻ như chúng tôi và mãi sau này khó có thể hình dung hết được sự mất mát, hy sinh của thế hệ trước. Nhưng tôi tin rằng thế hệ trẻ sẽ hiểu được vai trò và trách nhiệm to lớn của mình, luôn có khát vọng, ý chí vươn lên, có tinh thần đoàn kết, chia sẻ, tương thân, tương ái, vì cộng đồng và lợi ích quốc gia; luôn có mặt ở những nơi khó khăn, gian khổ, hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao, xứng đáng với truyền thống hào hùng của cha ông ta.