CHỦ NHẬT, NGÀY 10 THÁNG 11 NĂM 2024 10:45

Xót xa phận bạc làm dâu xứ người!

 

Ký ức khó quên...

Chiều muộn, những làn gió mang cái lạnh đầu đông càng thêm hơi lạnh vào tấm thân gầy gò của người đàn bà mới ngoài 40 tuổi nhưng có ngót nửa chặng đường sống trong khổ cực, đắng cay. Mỗi khi có ai đó hỏi đến chuyện bị lừa bán sang Trung Quốc, nước mắt chị Tô Thị Th. lại chực muốn trào ra trên khuôn mặt già nua, khắc khổ. Đôi mắt rớm lệ, chị nhìn 4 đứa con một cách đau xót.

Sau 21 năm trời biền biệt bị bán sang nước ngoài, bỗng dưng một ngày chị Th. trở về với một thân hình tàn tạ cùng 4 đứa con nhỏ làm cho cả gia đình và xóm làng sửng sốt. Những chuỗi ngày đau thương, khổ cực với biết bao tủi nhục bên xứ người có lẽ suốt cả phần đời còn lại chị chẳng thể nào quên.

 

Chị Tô Thị Th. (ngoài cùng bên phải) cùng người con gái thứ 2 Tô Lan kể lại chuyện với phóng viên.

Tâm trạng vẫn chưa hết hoảng loạn sau những tháng ngày sống khổ cực, những chặng đường dài lần mò tìm về quê hương, chị Th. kể: Vốn là con đầu trong một gia đình bốn anh chị em, vì cuộc sống nghèo túng, khổ cực nên chị cũng chẳng được ăn học đàng hoàng, tử tế.

“Tháng 2/1995, tôi được một người bạn cùng quê rủ lên Lạng Sơn đi hái chè thuê. Tưởng rằng sẽ kiếm được công việc, có thêm chút tiền phụ giúp gia đình, thế nhưng khi đến Lạng Sơn, rồi qua cửa khẩu sang Trung Quốc tôi mới biết mình bị lừa bán. Đó cũng là khởi đầu cho chặng đường dài đầy tủi nhục suốt hơn hai mươi năm qua. Sang đất Trung Quốc tôi bị đưa sâu vào nội địa ở xã Ruần Nần, huyện Reèng Coóng (Reèng Sắn), tỉnh Quảng Đông làm vợ một người dân tộc Hán sinh năm 1958 tên Voòng Nhất Sèng...”.

 

Cuộc sống hiện tại của gia đình chị Th. gặp hết sức khó khăn, phải nhờ sự trợ giúp của bà con lối xóm


Do bất đồng ngôn ngữ, lại bị gia đình quản thúc, chị Th. nói cuộc sống lúc đó vô cùng khó khăn, tủi nhục. 

 “Khu vực tôi ở là một vùng rừng núi, đường xá đi lại khó khăn. Người chồng của tôi trước đây từng bỏ tiền ra mua hai người về làm vợ, tuy nhiên hai người phụ nữ ấy cũng chỉ sống được một thời gian ngắn rồi bỏ trốn.

Chính vì vậy khi tôi về làm vợ ông ta (Voòng Nhất Sèng - PV) thì bị chồng và gia đình chồng quản thúc chặt chẽ. Hễ không vừa ý thì lại bị chồng cùng gia đình trút xuống những trận đòn roi thậm tệ. Không chỉ có tôi bị mua về làm vợ, ở những thung lũng gần đấy còn có nhiều người khác cũng bị lừa bán sang đây.

Do không có hôn thú hợp pháp nên tôi cũng chẳng được nhập quốc tịch, mấy đứa con chỉ học được vài lớp rồi bỏ. Ngày nào cũng vậy, tôi phải làm việc quần quật từ sáng đến tối mịt để kiếm sống. Sáng tôi phải dậy sớm lo nấu nướng sau đó mang cơm đi làm nương rẫy, chiều muộn thì về.

Trong 8 năm (1996-2004) tôi sinh 4 người con (1 trai, 3 gái) cho nhà chồng. Năm 1996 khi đứa con trai đầu lòng mới được mấy tháng tuổi tôi đã bế đứa con bỏ trốn khỏi nhà chồng. Tuy nhiên đi chưa được bao xa thì chồng và gia đình chồng phát hiện bắt lại, rồi bị đánh đập, hành hạ nhẫn tâm. Cũng từ đấy, rất nhiều lần tôi tìm cơ hội bỏ trốn về Việt Nam nhưng đều không thành. Suốt 21 năm qua, chưa bao giờ tôi nguôi ngoai ý định tìm đường trở về quê hương...”.

 

Chị Tô Thị Th. cùng con gái vẫn chưa hết bàng hoàng khi kể lại cuộc sống khổ cực 21 năm bị lừa bán sang Trung Quốc làm dâu.

Cơ cực ngày trở về

Năm 2008, người chồng chị Th. vì mang trọng bệnh mà qua đời. Thương con, thương giọt máu máu mình đứt ruột đẻ đau nên chị Th. quyết tâm trở về Việt Nam và đưa con theo cùng.

Chị kể: “Dành dụm được số tiền ít ỏi từ những ngày làm dâu nhà chồng, trong một lần gia đình nhà chồng không để ý, cả 5 mẹ con gom góp quần áo vượt hơn 30km đường rừng trong đêm để ra bến xe Reèng Coóng. Đường ra Reèng Coóng rừng rậm, đồi núi khó khăn, vất vả. Mấy mẹ con lúc nào cũng nơm nớp sợ gia đình nhà chồng đuổi theo bắt trở về.

Từ huyện Reèng Coóng (tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc), ngồi xe đò mấy đêm chúng tôi lên TP Đông Hưng thuộc tỉnh Quảng Tây, sau đó hỏi thăm đường về cửa khẩu Móng Cái (Việt Nam), rồi đi thuyền vượt biên về nước. Đến 7/9/2016 thì về đến nhà, kết thúc 21 năm làm dâu xứ người đầy khổ đau, tủi nhục...”.

 

4 người con chị Th. những ngày ở bên Trung Quốc.

Trở về quê hương, sống trong sự đùm bọc của gia đình, làng xóm với chị là niềm vui không bao giờ kể xiết. Thế nhưng hẳn sâu trong tâm trí chị những tháng ngày cơ cực, nỗi lo bị trục xuất, tương lai mờ mịt của những đứa con khiến chị chẳng thể nguôi ngoai.

“Kể từ ngày về đến giờ mấy mẹ con sống tạm trong căn nhà của người em út đi làm ăn xa để lại; gia đình, anh em cũng khó khăn nên chẳng giúp được gì nhiều. Hàng xóm thương tình người giúp bò gạo, bó rau... để mấy mẹ con sinh sống.

Tôi có nhận thêm mấy sào ruộng để kiếm kế sinh nhai. Mấy đứa con thì do bất đồng ngôn ngữ nên cũng chỉ quẩn quanh trong nhà, thêm phần nữa tâm lý chúng còn đang hoảng loạn. Hằng đêm sau những ngày làm việc mệt nhọc tôi lại dành chút thời gian dạy tiếng Việt cho bọn nhỏ cũng chỉ mong sao chúng sớm thông thạo, hòa nhập với mọi người rồi kiếm được việc làm ổn định để sinh sống.

Hồi trước ở trong rừng, trong rú, bây giờ trở về quê hương lại gần thành phố, mấy đứa nhỏ rất vui nhưng lúc nào cũng lo sợ nếu chẳng may bị trục xuất thì mẹ con lại ly tán, rồi tương lai sẽ khổ...”.

Mong muốn con mang quốc tịch Việt Nam

Trở về nước nhiều tháng nay, nhưng chị Th. lúc nào cũng sống trong lo âu bởi tất cả 5 mẹ con đều là những người vô danh, không tên tuổi, không hộ khẩu, hộ tịch.

“Cuộc sống bên đó khổ lắm, thương các con nên tôi đã tìm cách đưa chúng nó về quê hương sinh sống. 21 năm qua, ước muốn duy nhất của tôi là đưa các con trở về Việt Nam sinh sống đã thành hiện thực. Đứa lớn muốn đi tìm việc làm giúp mẹ cũng đành chịu bởi không có hộ khẩu, hộ tịch, rồi bất đồng ngôn ngữ.

Hiện tôi đã làm đơn xin khôi phục lại hộ khẩu và xin nhập quốc tịch cho các con để chúng nó có tên tuổi, danh phận. Các con tôi cũng mong muốn được ở lại đây sinh sống cùng mẹ” – chị Th. chia sẻ.

 

Thời gian rỗi, chị Th. lại dạy con tiếng Việt để mong sao con sớm hòa nhập.

Được biết, hiện anh Tô Đình Nghĩa (là em trai chị Th.) đã làm đơn gửi các cơ quan chức năng xin nhập khẩu cho chị gái và 4 người cháu vào sổ hộ khẩu nhà mình, trong đó tên các con của chị Th. được đặt là: Tô Bình, Tô Lan, Tô Thìn và Tô Hà. “Chúng tôi thương chị lắm, bao nhiêu năm sống khổ cực ở xứ người nên muốn chị được ở gần để anh em được đoàn tụ, bù đắp cho mẹ con chị ấy” – anh Nghĩa nói.

Nói thêm về vấn đề này, ông Lê Đình Quang, Phó trưởng công an xã Đông Lĩnh cho biết, ngày 7/9 địa phương nhận được thông tin chị Th. trở về cùng với 4 đứa con sau 21 năm mất tích.

“Sau khi nắm bắt tình hình, chúng tôi được biết chị Th. bị lừa bán qua Trung Quốc làm vợ từ năm 1995. Bốn người đi cùng, chị Th. khai là con của bà với người đàn ông Trung Quốc. Các cháu đều đã lớn, cháu nhiều tuổi nhất là 20 và nhỏ nhất là 12 tuổi” – ông Quang nói.

Cũng theo ông Quang, đây là vấn đề rất nhạy cảm cần phải xác minh cụ thể, cặn kẽ vì muốn nhập Quốc tịch đâu phải đơn giản, chưa nói đến việc những người con bà Th. không có giấy tờ gì cả, trong đó có 2 người trên 18 tuổi.

“Chúng tôi cũng đã tạo điều kiện hết mức nhưng sự việc ngoài tầm giải quyết của chính quyền địa phương. Hiện tại chúng tôi đã báo cáo sự việc lên cấp trên xin hướng giải quyết. Hiện nay Công an TP, công an tỉnh cũng đã nhiều lần cử người về xác minh, làm rõ thêm thông tin để đưa ra hướng xử lý. Trước mắt, xã đã yêu cầu thôn xóm quan tâm, hỗ trợ gia đình bà Th. phần nào để mẹ con tạm thời ổn định cuộc sống” – ông Quang cho biết thêm.

MỘC MIÊN

CÙNG CHUYÊN MỤC
Xem theo ngày
Tin nên đọc
Báo dân sinh
Báo dân sinh
Báo dân sinh