Vẹn nghĩa tình với đồng đội
- Người có công
- 07:00 - 27/07/2023
Tôi tìm đến nhà Thiếu tướng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Phan Văn Lai tại phố Hoàng Cầu, khi đường phố Thủ đô đã ngập tràn sắc đỏ của những băng rôn kỷ niệm 76 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ. Ông luôn chỉnh trang với bộ quân phục bạc màu thời gian khi tiếp khách. Dù tuổi cao, nhưng hồi ức của một cán bộ công an chi viện chiến trường miền Nam một thời vẫn vẹn nguyên.
Cẩn thận xếp lại cuốn album trên bàn làm việc cho ngay ngắn, ông xúc động nhớ lại: Những năm tháng chiến đấu ở chiến trường đã để lại trong tôi biết bao kỷ niệm không thể nào quên. Một trong những kỷ niệm đến nay vẫn khắc sâu trong ký ức đó là lời dặn dò của một cán bộ công an chi viện vào chiến trường Thừa Thiên - Huế, liệt sĩ Lê Như Khánh, dù biết sẽ hy sinh vẫn sẵn sàng hiến dâng cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Thực hiện chủ trương của Khu ủy Trị Thiên Huế mở đợt “Tấn công toàn diện mùa Thu năm 1967”, tôi có dịp về huyện Hương Thủy gặp đồng chí Lê Như Khánh (bí danh Thanh Long), Trưởng Ban An ninh huyện mà đã 2 năm chúng tôi xa nhau.
Về tuổi đời, tôi lớn hơn Khánh 7 tuổi, lại là người cùng quê nên Khánh coi tôi như người anh. Đêm đó tại hậu cứ huyện Hương Thủy, chúng tôi không sao ngủ được. Cả hai ngồi bên bếp lửa, rồi thì thầm kể cho nhau nghe về gia đình và ôn lại kỷ niệm buổi chia tay vợ, con trước ngày lên đường vào chiến trường miền Nam chiến đấu.
Câu chuyện kéo dài mãi không dứt bởi tôi và Khánh có nhiều điểm trùng hợp, sâu nặng. Ngày ấy, chúng tôi cùng công tác ở công an tỉnh Hà Nam, cùng được Bộ triệu tập lớp đi B tháng 12/1962, cùng được chi viện vào Ban An ninh Thừa Thiên - Huế, cùng có con trai sinh năm 1962 và 2 chị em (vợ tôi và vợ Khánh) cùng bồng bế đứa con nhỏ tất tả lên Trường Công an Trung ương thăm chồng vào thời điểm chỉ còn vài ngày nữa là chúng tôi lên đường. Đây là thời điểm nhà trường rất hạn chế việc tiếp xúc với gia đình nhằm giữ bí mật chuyến đi. Do vậy, tôi và Khánh cố kìm nén tình cảm, tỏ ra vui vẻ như mọi lần và giữ kín về chuyến đi công tác xa để tránh gây sự xúc động cho vợ.
Chúng tôi chỉ được trò chuyện trong chốc lát ở phòng thường trực, ôm hôn đứa con yêu của mình rồi động viên vợ: “Hiện nay các anh đang còn thời gian học tập, Chủ nhật tới các anh sẽ về Phủ Lý thăm các em và các con. Con chúng mình còn nhỏ, trời rét, đường xa, xe tầu khó khăn, vất vả lắm. Từ nay, các em không phải lên nữa, cứ một hai tuần các anh sẽ thu xếp về thăm”. Nói vậy chứ tôi và Khánh lúc ấy đều hiểu rõ đó chỉ là lời an ủi, động viên người vợ của mình. Sự thực thì từ nay tới ngày lên đường đâu còn cơ hội về thăm.
Đêm đó, tôi trằn trọc không sao ngủ được, chưa bao giờ lại thương vợ, nhớ con đến thế, cứ mơ mơ màng màng. Đến gần sáng, tôi bật dậy, đầu óc như bừng tỉnh, nhớ lại buổi tạm biệt vợ, con hôm qua, tôi lấy giấy ra viết một mạch hai lá thư gửi cho vợ và con: “Xa em muôn dặm nghìn trùng/Nghĩa tình chung thủy sắt son tạc lòng/ Bắc, Nam liền dải chung dòng/Thù nhà, nợ nước trả xong anh về” và “Vì Tổ quốc bị quân thù chia sẻ/Cha ra đi cứu nước cứu nhà/Nhớ thương tình cảm chan hòa/Mong con khôn lớn nối dòng nghiệp cha/Tương lai thắng lợi về ta/ Thanh bình nước thịnh yên vui thái hòa” (Lai, Thanh, Thái, Thịnh, Thắng là tên tôi, vợ và 3 con). Hai lá thư này đã được Vụ Tổ chức cán bộ gửi về cho gia đình, vợ tôi vẫn lưu giữ cho đến nay như một kỷ vật quý báu luôn ở bên nhau.
Câu chuyện giữa hai người đang cuốn hút, chợt Khánh dừng lại nhìn tôi vẻ đăm chiêu, rồi thững thờ nói: “Anh Thi (tức Lai)! Công tác ở huyện gian khổ lắm, em là cán bộ lãnh đạo, phải gương mẫu lăn lộn trong quần chúng ở cơ sở mới động viên anh em đi phía trước được. Hy sinh là chuyện khó tránh khỏi nên em có mệnh hệ nào, nếu may mắn anh còn sống, anh cố tìm phần còn lại của em và đưa em về quê hương nhé”.
Tôi sững sờ trong giây lát nhưng rồi cố trấn tĩnh lại để động viên Khánh: “Sao Khánh lại nói chuyện gở như thế. Anh em mình cao số lắm, kháng chiến thắng lợi, anh em mình lại cùng nhau về Phủ Lý trả món nợ cũ cho hai nàng như lời hứa đã hẹn hò năm xưa ở cổng trường Công an Trung ương chứ”.
Tôi động viên Khánh vậy thôi chứ ai đã hoạt động ở chiến trường đều thấm thía, thấu hiểu những gì Khánh nói. Lòng tôi thắt lại, thấy như nghẹn thở và lặng đi một lúc. Tôi thầm nghĩ: Thật đau xót nếu chuyện đó xảy ra với tôi hoặc Khánh thì vợ, con sống ra sao? Họ đau khổ đến mức nào? Nhưng đó là sự nghiệp cách mạng, nếu không có lớp người chịu hy sinh làm sao có kháng chiến thắng lợi, có độc lập, tự do, thống nhất, có hạnh phúc cho mọi gia đình? Suy nghĩ đó như niềm an ủi trào lên trong lòng tôi.
Đồng chí Khánh là cán bộ xông xáo, dũng cảm và mẫu mực. Từ ngày Khánh về huyện Hương Thủy đã phát huy tốt vai trò của mình, được lãnh đạo an ninh tỉnh Thừa Thiên - Huế ghi nhận. Sau Mậu Thân năm 1968, Hương Thủy là trọng điểm bình định của địch, chúng chà đi xát lại vùng có nhiều cơ sở cách mạng để bảo vệ TP. Huế và căn cứ Phú Bài.
Ở giai đoạn vô cùng khó khăn, gian khổ, ác liệt, đại bộ phận cán bộ, chiến sĩ phải đưa lên căn cứ miền núi hoặc cho ra miền Bắc để bảo toàn lực lượng. Hầu hết cán bộ ở lại bám trụ cơ sở lần lượt hy sinh. Đồng chí Khánh vẫn bám trụ vững trong quần chúng, luôn nêu cao vai trò người cán bộ công an được chi viện vào chiến trường, là tấm gương kiên cường bám trụ ở cơ sở.
Mặc dù được nhân dân thôn Lang, xã Cồn, xã Thủy Thanh nuôi dưỡng, che chở chu đáo nhưng đồng chí Khánh vẫn không tránh khỏi hiểm nguy. Thế rồi trong lần địch xăm trúng hầm bí mật, kêu gọi đầu hàng nhưng với khí phách anh hùng và tấm lòng kiên trung với Đảng, với dân, Khánh đã bật nắp hầm nhảy lên bắn trả quyết liệt vào kẻ thù và đã anh dũng hy sinh.
Ghi nhớ công ơn người cán bộ an ninh quê miền Bắc đã chẳng tiếc máu xương vào chiến đấu giải phóng quê hương mình, cơ sở và đồng bào ta vô cùng đau buồn, tiếc thương người cán bộ an ninh Lê Như Khánh và đã bí mật chôn cất, giữ gìn mộ chí, hương khói nơi Khánh yên nghỉ.
Ngay sau ngày tỉnh Thừa Thiên - Huế được giải phóng (26/3/1975), tôi tìm về nơi Khánh hy sinh. Tôi được nhân dân dẫn đến nơi Khánh yên nghỉ. Ngồi trước ngôi mộ xanh cỏ, đốt nén hương thơm, dù âm dương cách biệt, tôi vẫn thấy hình ảnh Khánh.
Trước mộ, tôi nghẹn ngào: “Hôm nay, anh lại đến với em nhưng đâu còn được ngồi bên nhau trò chuyện như ngày nào ở Hương Thủy. Em đã ra đi nhưng sự hy sinh anh dũng của em vẫn còn sống mãi trong lòng đồng bào, đồng chí, đồng đội. Em hãy phù hộ cho vợ, con em được mạnh khỏe, hạnh phúc. Anh không bao giờ quên được lời em dặn”.
Sau đó tôi chụp ảnh ngôi mộ Khánh và đưa về cho gia đình. Vài năm sau được sự giúp đỡ tận tình của lãnh đạo công an tỉnh Thừa Thiên - Huế, công an tỉnh Nam Hà, hài cốt đồng chí Khánh đã được đưa về quê hương. Lễ an táng được tổ chức trọng thể tại nghĩa trang liệt sĩ quê nhà TP. Nam Định.