THỨ SÁU, NGÀY 22 THÁNG 11 NĂM 2024 07:29

Thị trường lao động Việt Nam - nhìn từ các FTA

 

Tác động từ TPP và AEC

AEC có hiệu lực sẽ tạo sự tự do di chuyển lao động có tay nghề giữa các nước ASEAN và Việt Nam, nhất là trong 8 ngành, nghề được thỏa thuận công nhận tay nghề tương đương nội khối, gồm: Kế toán, kiến trúc sư, nha sĩ, bác sĩ, điều dưỡng, kỹ sư, vận chuyển và nhân viên ngành du lịch. AEC cũng mở ra nhiều cơ hội mới cho tiếp cận thị trường 600 triệu dân, tổng GDP nội khối là 2.300 tỷ USD và cả thị trường của một số nước khác có các thỏa thuận thương mại tự do (FTAs) riêng rẽ của ASEAN, như Úc, New Zealand, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc.

Hiện tất cả các nước TPP đều là thành viên của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và công nhận tầm quan trọng của việc thúc đẩy các quyền lao động được quốc tế công nhận. Trong TPP, các thành viên đồng ý thông qua và duy trì trong luật và thông lệ của mình các quyền cơ bản của người lao động như được thừa nhận trong Tuyên bố 1998 của ILO, đó là quyền tự do liên kết và quyền thương lượng tập thể; xóa bỏ lao động cưỡng bức; xóa bỏ lao động trẻ em và cấm các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất; và loại bỏ sự phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp. Các thành viên cũng đồng ý có luật quy định mức lương tối thiểu, số giờ làm việc, an toàn và sức khỏe nghề nghiệp. Những cam kết này áp dụng cả với các khu chế xuất.

Sinh viên Trường cao đẳng Du lịch Sài Gòn thực hành nghề nấu ăn.

12 nước TPP đồng ý không miễn trừ hoặc giảm hiệu lực của pháp luật quy định việc thực thi các quyền cơ bản của người lao động để thu hút thương mại hoặc đầu tư, và thực thi một cách hiệu quả pháp luật liên quan đến lao động một cách bền vững hoặc đều đặn có thể có ảnh hưởng tới thương mại hoặc đầu tư giữa các nước TPP. Bên cạnh các cam kết của các nước TPP nhằm xóa bỏ lao động cưỡng bức trong nước mình, chương quy định về lao động còn bao gồm những cam kết không khuyến khích việc nhập khẩu hàng hóa được sản xuất bằng lao động cưỡng bức hoặc lao động trẻ em, hoặc sử dụng nguyên liệu đầu vào được sản xuất ra bằng lao động cưỡng bức, bất kể nước xuất xứ có phải là nước TPP hay không.

Cơ hội đi cùng thách thức

Hiện nay, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của Việt Nam tính đến 1/1/2016 là 54,61 triệu người. Năm 2015, cả nước có 56% lao động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản có việc làm phi chính thức (thành thị là 47,1% và nông thôn là 64,3%). Tỉ lệ lao động qua đào tạo cuối năm 2015 ước đạt 51,6%, trong đó tỉ lệ lao động qua đào tạo được cấp chứng chỉ là 21,9%.

Việt Nam đang trong thời kỳ dân số vàng và mỗi năm có hơn 1 triệu người tham gia vào thị trường lao động. Nguồn lao động trẻ và dồi dào đã mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội, nhưng việc có tới gần 80% chưa qua đào tạo hoặc thiếu bằng cấp đang cản trở Việt Nam khai thác hiệu quả cơ hội này. Trong khi đó, lợi thế và hàm lượng về chi phí nhân công rẻ đang giảm dần cùng với sự phát triển khoa học công nghệ, áp lực cạnh tranh thị trường và nhu cầu tăng lương, cải thiện chất lượng sống của người lao động. Bên cạnh đó, áp lực việc làm càng cao hơn khi trên thực tế, lao động chưa qua đào tạo tập trung phần lớn trong các ngành nông nghiệp kém sức cạnh tranh, dệt may, da giầy và khu vực phi chính thức phi nông nghiệp, chủ yếu là dịch vụ và lao động tại gia khác...

Lao động ngành dệt may.

Sự tham gia các hiệp định FTA, nhất là TPP sẽ tác động mạnh tới tất cả các hoạt động kinh tế, các doanh nghiệp và trực tiếp lao động Việt Nam. Các doanh nghiệp có cơ hội thu hút nhân lực cao từ các nước khác, nhưng cũng chịu áp lực từ hoạt động “săn đầu người” cuả các công ty nhân lực hay tập đoàn lớn trong khu vực và thế giới.Việc các nước thành viên các FTA, nhất là TPP, phải thực thi các nguyên tắc và quyền cơ bản tại nơi làm việc, cũng như thực hiện quyền của người lao động các tổ chức xã hội dân sự, tiêu chuẩn lao động, tự do hiệp hội-công đoàn, đặc biệt là về những điều kiện tối thiểu: An toàn vệ sinh lao động, tiền lương tối thiểu, thời giờ làm việc và nghỉ ngơi. Lao động Việt Nam sẽ có cơ hội cải thiện các quyền lợi hợp pháp của mình cả về thu nhập tối thiểu, môi trường làm việc và môi trường sống, cũng như về hiệp hội và công đoàn, kể cả tìm kiếm cơ hội việc làm mới trong nước hoặc ở các nước thành viên TPP.

Tuy nhiên, thách thức đối với lao động Việt Nam cũng không nhỏ, nhất là về nâng cao trình độ ngoại ngữ, kỹ năng tay nghề cao và vốn hiểu biết, kiến thức và ứng xử văn hóa việc làm trong môi trường quốc tế cao; tinh thần liên kết và cạnh tranh gắn với các nhóm lao động đặc thù  (khu vực phi chính thức) và lợi ích xã hội khác nhau. Áp lực cạnh tranh cao khi hội nhập có thể làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp do tình trạng giảm bớt nhân công, nhất là lao động phổ thông để tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất nhờ đổi mới kỹ thuật và quản trị, cũng như do doanh nghiệp kém sức cạnh tranh, buộc phá sản...

Tuy nhiên, trên hết vẫn là kỳ vọng lớn lao rằng tham gia và thực thi TPP sẽ giúp thị trường lao động Việt Nam và các thành viên  có tính mở, quốc tế hóa và cạnh tranh lành mạnh hơn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, hỗ trợ những công việc được trả lương cao hơn, cải thiện sức sáng tạo, năng suất, sức cạnh tranh, tăng mức sống, tạo công ăn việc làm, thúc đẩy tăng trưởng bền vững...

TS.NGUYỄN MINH PHONG

CÙNG CHUYÊN MỤC
Xem theo ngày
Tin nên đọc
Báo dân sinh
Báo dân sinh
Báo dân sinh