Nhà thơ Lê Anh Xuân: Tạc vào thế kỷ "Dáng đứng Việt Nam"
- Văn hóa - Giải trí
- 15:07 - 16/06/2016
Xuất thân trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu văn học nghệ thuật, ông đã sớm bộc lộ năng khiếu về sáng tạo thi ca. Ngay từ khi còn là sinh viên, bài thơ đầu tiên “Nhớ mưa quê hương” với những cảm xúc đầy hoài niệm về quê hương xứ dừa Bến Tre của ông đã nhận được sự đồng cảm chia sẻ của đông đảo bạn đọc. Bài thơ được giải Nhì trong một cuộc thi thơ do tạp chí Văn nghệ tổ chức vào năm 1960 đã thực sự khích lệ ông tự tin hơn để dấn thân vào nghiệp thi ca. “Nhớ mưa quê hương” với những câu thơ giàu cảm xúc, giàu hình ảnh, giàu chất trữ tình và trĩu nặng sự hoài niệm tuổi thơ với xứ dừa quê nội ấy đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả bao thế hệ. “Ôi cơn mưa quê hương/ Đã ru hát hồn ta thuở bé/ Đã thấm nặng lòng ta những tình yêu chớm hé/ Nghe tiếng mưa rơi trên tàu chuối, bẹ dừa/”. Những hoài niệm về tuổi thơ dầm tắm trong cơn mưa quê hương, những cảm xúc của ông cứ lan tỏa cứ dào dạt rồi như vỡ òa “rung động’ cả “trăm sông” cả “bể rộng”.
Nhà thơ Lê Anh Xuân khi còn là sinh viên
Những năm tháng vừa cầm súng chiến đấu, vừa cầm bút sáng tác ông làm việc ở Tiểu ban Giáo dục, thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương cục miền Nam và sau đó là Hội Văn nghệ Giải phóng. Đây là thời kỳ ông thực sự cọ sát với hiện thực cuộc chiến tranh đầy cam go quyết liệt, nhưng cũng đầy khí phách anh dũng hào hùng của dân tộc, nên tính tư tưởng trong thơ ông được nâng lên một tầm cao mới. Thơ ông giai đoạn này, không còn là những ưu tư hoài niệm trữ tình lãng mạn như thời “Nhớ mưa quê hương” nữa, mà đã hằn sâu dấu ấn một hiện thực khốc liệt hơn của cuộc chiến với sự sống và cái chết của những người lính trận chỉ trong gang tấc.
Nhà thơ Lê Anh Xuân (trái) và nhà văn Anh Đức (phải) tại căn cứ Ban Tuyên huấn, Trung ương Cục miềm Nam.
Nhiều nhà lý luận phê bình văn học nhận xét, ông là người ghi chép lại lịch sử bằng thơ. Trong đó điểm nhấn nổi bật nhất là hình ảnh “quê hương đồng khởi” xứ dừa Bến Tre. “Ôi thân dừa đã hai lần máu chảy/ Biết bao đau thương, biết mấy oán hờn/” (Dừa ơi). Chính hiện thực chiến trường, nơi ông đang trực tiếp cầm súng sát cánh cùng đồng đội vừa chiến đấu, vừa “chép sử” bằng thi ca đã cho ông những cảm xúc bi tráng viết nên những bài thơ đầy ấn tượng. Và bài thơ “Dáng đứng Việt Nam”, đã được thăng hoa sáng tạo từ hiện thực người chiến sĩ Giải phóng quân ngã xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 (đợt 1). “Anh ngã xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất/ Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng/ Và anh chết trong khi đang đứng bắn/ Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”. Khoảnh khắc hy sinh của người chiến sĩ Giải phóng quân không tên, “không một tấm hình, không một dòng địa chỉ” ấy thật bi tráng, nó đã tạc vào thế kỷ một “dáng đứng Việt Nam” “như bức thành đồng”. “Anh tên gì hỡi Anh yêu quý/ Anh vẫn lặng im như bức thành đồng/ Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ/ Mà vẫn một màu bình dị sáng trong/ Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ/Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường/ Chỉ để lại cái dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ”. Trước lúc xuống chiến trường vùng ven đô Sài Gòn tham gia đợt hai cuộc Tổng tấn công và nổi dậy xuân Mậu Thân (5/1968), ông đã trao bài thơ cho nhà văn Anh Đức, phụ trách tờ Văn nghệ Giải phóng. Nhà văn anh Đức và ban biên tập nhất trí đổi tên bài thơ “Anh Giải phóng quân” thành “Dáng dứng Việt Nam” và đăng trên tạp chí. Nhưng tạp chí chưa kịp tới tay ông thì ngày 24/5/1968, ông đã vĩnh viễn nằm lại ở huyện Cần Đước, tỉnh Long An trong một trận càn của quân đội Mỹ../