Mùi thuốc súng
- Văn hóa - Giải trí
- 13:31 - 30/04/2018
Suốt cả chuyến tàu trở về, dường như anh không thể ngủ cho ra ngủ, cứ vừa thiêm thiếp là lại chập chờn mơ. Giấc ngủ bồng bềnh, lắc lư như con tầu, đầy những cơn mộng mị. Và, trong mơ, có lúc anh còn ngửi thấy cả mùi tóc, mùi miệng, mùi môi, cả mùi nách nồng nồng nhưng đã ngấm vào anh của vợ. Mơ thấy vợ, rồi con, đứa con gái anh chưa biết mặt, anh choàng tỉnh. Bật phắt dậy, không thể ngủ được nữa! Ra đầu toa, đứng nhìn vào đêm đen thẫm, anh đốt liền ba bốn điếu thuốc.
Quay lại toa tầu nơi có chỗ của anh, lại mở ba lô lần đếm. Cái này cho con gái, cái này cho thầy, cái này cho u, cho vợ nữa và còn những cái này, bao kỉ vật cuộc chiến của anh. Chiếc ponso rằn ri, mấy múi dù hoa. Con dao găm Mỹ chuôi bằng các vòng gỗ kết vào nhau và túi mìn Claymo... Anh lật đi lật lại trên tay vật cuối cùng, một bánh TNT, loại thuốc nổ cực mạnh. Thỏi thuốc hình bánh khảo, màu vàng. Anh đưa lên mũi ngửi.
Mùi thuốc súng.
Cái mùi theo anh suốt bao năm, để mỗi khi hít phải, anh có cảm giác rất lạ. Nửa đam mê, nửa như sợ hãi, lại như cho anh sức mạnh tựa khi mộng du. Rồi tỉnh táo lạ thường. Anh là đặc công, lính đặc công quần xịp, bôi tro đen kín khắp thân người, để anh lẫn vào bùn đất, vào bóng đêm, áp sát đồn, căn cứ địch với nhiều kíp nổ và vài khối thuốc nổ đã tra kíp, dao găm và thủ pháo, Ak 47 giảm thanh báng xếp. Ừ, cái thứ thuốc chết người ấy, tỏa ra một mùi vị khó quên, không thể tả nổi. Mỗi khi bật chốt điểm hỏa; lửa đỏ bùng lên trong nháy mắt tạo ra sức ép kinh khủng và mùi thuốc súng tỏa ra, để anh nhao vào điểm đánh khác như tan vào nó. Mùi ấy sau bao ngày, lâu năm ngấm vào từng tế bào trong anh.
Anh ấn sâu thỏi thuốc vào ba lô. Hòa bình rồi chả cần nó nổ nữa, anh rút kíp vứt đi trước khi giữ nó làm kỉ vật.
Rồi con tầu cũng về tới ga Hà Nội.
Anh quyết định đi bộ, sải chân về làng. Ăn nhằm gì! Từ ga Hàng Cỏ tới Kinh Bắc có bao xa? Anh muốn nhìn lại tất cả, từ ga tới làng anh, bên kia con sông, nơi cách đây 12 năm anh giã từ nó, chưa một lần trở lại.
***
Nhà đây rồi. Anh hồi hộp nới sợi thép buộc cổng. Rón rén, lách qua hàng dậu cúc tần. Những sợi tơ vàng quấn trong bụi cây, trong ánh trăng lấp lánh sương ướt, vẫn phân biệt được màu vàng của dây tơ hồng và màu xanh của lá, dầu là muôn kiếp, chúng cứ quấn quýt bên nhau.
Trăng chiếu xéo vào cửa nhà anh. Anh nhận ra bậu cửa vẫn xiêu vẹo. Cái hiên đất nện nứt nẻ. Lòng anh thắt lại...
Bấy giờ không còn chần chừ được, anh lao vào nhà.
- Ai thế!- Có tiếng người rè, khản vọng ra.
Anh im lặng. Rón rén! Khe khẽ:
- Tôi. Tôi đây.
Tiếng chân từ trong chái nhà bước ra chầm chậm. Đúng là vợ anh rồi. Cái dáng ấy bao nhiêu năm sao mà lẫn với ai được.
Anh chợt sững lại. Vợ anh ư?! Sao trên tay lại có đứa trẻ nào thế kia?
- Ai đấy? Tiếng người run rẩy hỏi.
- Tôi đây? - Anh sấn tới như gió, ùa vào ôm vợ.
Sao vợ anh hờ hững và chợt như xỉu ra.
- Thầy u đâu cả? - Anh hỏi và nhìn quanh gian nhà lạnh ngắt.
Người đàn bà hình như đã nhận ra anh:
- Trời ơi! Mình đấy à? Tôi mê hay tỉnh đây? Trời ơi, mình hay ma?-
Người đàn bà sụp xuống, lạy:
- Anh có khôn thiêng phù hộ mẹ con tôi, đừng làm tôi sợ. Nói xong, người đàn bà bỗng khuỵu xuống. Anh đỡ vợ. Đúng hơn là đỡ cả người đàn bà và đứa trẻ như con chim non bấy trong vòng tay.
***
Chuyện anh về cả xóm, cả làng ồn lên. “Thằng Thánh về rồi. Chuyến này chắc nó giết con đĩ Thơm. Vợ con chó gì, ngủ với cả bố chồng, lại đẩy ông ta tới mức tự tử”. Ối trời, cái làng nhỏ như bàn tay ếch ồn ĩ, thì thào như cái chợ âm phủ quanh câu chuyện của gia đình anh. Nhưng anh không điếc, tiếng người ta cứ như rót vào, như cố xoáy, day, cứa cho bằng nát tan cõi lòng anh.
Anh trốn tránh tất cả. Ngày, đêm nằm chết lặng trong góc giường tối, ba bốn ngày không ra khỏi nhà. Người ta như vô tư tới thăm người lính trận đột ngột trở về. Người thương anh ái ngại nhìn, ngập ngừng nói. Nhưng anh lại như đau thêm vì tình thương ấy. Kẻ tò mò thọc mạnh cũng nhanh chân đến. Cả hai điều ấy chỉ làm cõi lòng anh thêm nhức nhối, bởi người lính từ cõi chết trờ về đâu cần thương hại. Hóa ra vượt qua hàng rào lửa ở chiến trường còn dễ hơn khi nghe, nhìn, rồi cảm thấy nỗi đau rất rõ ràng của chính mình ở ngay trong cái làng của anh. Anh quyết định rào kín cổng, quây tre cao hơn những hàng cúc tần, bít chặt cả những lỗ thủng quanh nhà, thậm chí tất cả lỗ chó chui.
Từng đêm vắt tay lên trán anh nằm, giữa một bên là con gái anh, 12 tuổi, tính ra đúng là tuổi sinh ra từ ngày anh ra đi; một bên là em trai anh mới hơn một tuổi... Chẳng thể nào ngủ nổi, và anh như muốn chôn sống mình trong chính ngôi nhà, khu vườn cha ông, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi đã nuôi anh lớn khôn. Anh ôm đứa em trên tay khi nó cựa quậy, ú ớ đòi mẹ. Anh đi sang mái nhà bên, nơi thầy u anh ở, thắp hương cho thầy, rồi lại ôm lấy mẹ. Những khi ấy, anh để nguyên cho mẹ khóc. Nước mắt mẹ ướt hết vai anh. Trên bàn thờ, cha anh cứ nhìn anh trân trân. Đen trắng hoang dại.
- Biết làm thế nào bây giờ, u ơi. Có lúc anh muốn thốt lên câu ấy mà không sao mở miệng được. Lại có đêm, anh đau thắt khi nhìn khuôn mặt vợ bơ phờ quỳ bên hương án.
Đau lòng quá. Anh chợt nhớ tới mùi thuốc súng. Lục ba lô, lấy ra thỏi bộc phá TNT, lại bần thần vầy vò nó trong tay. Cuối cùng nhìn lại hai đứa trẻ, anh quay ra tìm con dao găm Mỹ đã dắt ở cửa nhà từ đêm anh về. Cạo ra một ít thuốc, anh châm lửa Zippo. Một mùi thơm bay ra, quẩn vào anh, đánh thức tất cả thần kinh của con người đã vượt qua biết bao khó khăn, sinh tử trận mạc, cho anh bình tĩnh lại. Phải sống! Anh còn mẹ già. Còn hai đứa trẻ. Con anh và đứa em ruột của anh.
Nhưng sống như thế nào đây? Những khoảnh khắc sinh tử trong chiến tranh vụt hiện. Nhưng hóa ra nó đâu khốc liệt như ngày hôm nay? Cuộc đời bao mất mát, bao người hy sinh trong vòng tay cho anh hiểu điều ấy. Hai đứa trẻ, con và em anh đòi anh phải sống, quên đi mà sống. Bản thân anh cũng không hiểu rằng, mình còn yêu thương hay căm thù cái gì, cả con người mà khi xưa anh rất yêu thương và mong chờ 12 năm cho ngày trở về. Và cả thầy anh, người anh kính trọng và yêu thương. Con người ta đâu chỉ sống cho quá khứ, phải sống cho hiện tại và nhất là tương lai chứ!
Phải sống!
Nơi mái nhà anh nhìn lên có một góc xơ xác, đen mục vì mưa thấm xuống “nơi đấy đã hơn năm nay, chả có ai dọi lại chỗ dột”. Cuộc chiến đã đi qua mái nhà này và để lại một di chứng là nơi dột kia. Và cả những góc không nhìn thấy được. Nơi dột kia có thể soi lại, dọi lại, còn số phận mẹ anh, các con anh? Và cả chính anh nữa? Sớm ấy anh sang nhà bên ôm lấy mẹ:
- Thôi u ạ. Mọi chuyện cho qua hết. Từ mai, u dọn sang nhà con đi!
- Không. U không sang đâu. Nhà anh, anh ở…
- Thôi mà u. Nhà con nó chót dại.
- U cũng chẳng trách nó, cả làng này ai mà chả nghĩ, anh đã chết rồi. Đã 11 năm nó vẫn kiên gan chờ anh. Chờ một người mà cả làng đều tin là đã chết. Giấy báo tử cũng đã về kia. Tôi cũng chả trách thầy anh. Anh đi ngày nào tôi ốm đau, mỏi mòn ngày ấy. Thầy anh cũng vò võ một mình. Rồi lại thương nó, đàn bà con gái cũng chỉ có thì... Nhưng giá như ông ấy tìm thú vui ở đâu, sao lại là nó... thì...thì tôi đâu hận.
- Thôi mà u. Con biền biệt chả tin tức gì! Thôi nín đi u!
- Ừ, tôi cũng nghĩ vậy. Vì thế trời Phật cho tôi còn đến ngày hôm nay để thấy anh về.
U dấm dứt khóc.
Anh cũng hiểu cả, muốn tha thứ, muốn quên tất mà vượt qua. Nhưng... anh không biết phải sống tiếp như thế nào?
Anh cũng hình dung tất cả sự việc qua lời kể đứt quãng của vợ về cái ngày sau đó, khi cái bụng vợ anh to dần, lộ ra không thể che giấu, để cả làng náo loạn lên. “Thầy ngồi trong góc nhà tối khuya lắm, đêm ấy, cạnh cái vỏ chai thuốc sâu đã trống rỗng…” Rằng, “miệng thầy sùi bọt, bàn tay thầy yếu ớt run rẩy đưa về phía em. Vươn sát cái bụng đã to sáu tháng của em.”- “Giữ lấy em thằng Thánh! Nó chết rồi. Thầy có lỗi với hai vợ chồng mày cũng là vì dòng họ, dòng tộc! Ai là người gìn giữ mồ mả? Ai giữ gìn đất đai? ” Rằng, thầy ho khi bọt ở miệng cứ sùi ra...
“ Thầy nói thế, nên trước đó em giận thầy lắm, em vẫn giữ lại đứa em của anh, cho dòng họ Nguyễn làng này. Tất cả trai đinh làng ta đã ra đi và nằm lại ở chiến trường cả...Ai ngờ... Mà sao anh vẫn sống sót trở về để xáo tung hết cái ao bùn đang lắng này. Hu… hu….”
Suốt đêm ấy vợ anh khóc. Anh nằm bên, trân trân nhìn lên trần nhà, đau như có trăm ngàn nhát dao chém nát hết cả cõi lòng. Bao nhiêu ngày vợ anh đã khóc? Bao nhiêu ngày từ khi anh ra đi? Anh nào có lỗi, ai nào có lỗi?
Những năm ấy máy bay cứ rào rào bắn phá quanh làng anh. Máy bay trút bao nhiêu bom bi xuống phá cả ngôi chùa làng anh, cạnh nhà máy thủy tinh nhỏ của huyện. Từ Nam ra Bắc ai mà chả căm ghét cái lũ từ đâu tới đây và bao nhiêu người như anh phải ra đi.
Mà sao thầy anh lại chọn cái kết cục thảm khốc thế. Cả nhà anh đều khổ đau thế. Nỗi đau đâu chỉ của mình anh hay của riêng u anh? Rõ là thầy anh đã tìm lấy cái chết để tự giải thoát... Anh cũng hiểu vì sao vài lần vợ anh muốn tự vẫn, cả trước và sau khi thầy mất. Rồi có lần, khi dọn dẹp bàn thờ giúp u, lục trong hốc tủ nhà u, anh còn thấy một sợi dây thừng giấu kín trong mớ quần áo bạc phếch. Thánh mân mê con dao găm Mỹ. Con dao anh mài đã sắc bén, có thể cạo sồn sột đám lông chân. Anh không thể đâm một nhát vào bụng mình dù anh đã cố mài cho thật bén, thật nhọn và sắc! Không, anh phải sống!
Những đứa trẻ còn kia!
***
Thời gian qua đi, như con người ta không để tự cứa mãi vào vết thương của mình. Anh cố gắng như con trâu đực kéo cày trên thửa ruộng. Rồi cũng có tiền mua ngói thay mái rạ. Mua một cái xe đạp cà tàng.
Những đứa trẻ cũng lớn lên! Thấm thoát hai năm. Mỗi khi nhìn con gái anh, cặp sách ngang hông, tóc chấm ngang vai, tung tăng từ trường về như con sáo nhỏ, hát líu lo. Tiếng hát của con bé như trườn lên rặng cúc tần có những sợi tơ vàng yên bình quấn quýt bên nhau, bay qua cả rặng tre trước ngõ thanh bình, làm lòng anh chùng xuống, dịu đi. Vâng, dù sao cũng vẫn phải sống. Yên hàn rồi cơ mà!
Một ngày mùa hè nóng bỏng, cách giỗ thầy anh hai ngày. Mùa hè, ai cũng như muốn điên vì cái nóng hầm hập cả ngày và đêm. Trước khi ra đồng, vợ anh chặt hai buồng chuối và dặn, có thằng Hạ tới thì bán giá như thế, như thế. Không được bớt xén! Từng ấy tiền vừa đủ mua sách cho con gái anh đấy!
Chờ mãi cũng chẳng thấy thằng Hạ tới mua chuối. Tới chiều đang lúi húi bên vườn vật bùn từ dưới ao lên, thì u ở nhà thờ họ sang:
- Này, anh này. Buồng chuối đẹp quá. Cho u xin hai nải thắp hương cho thầy, anh nhé.
- Vâng u lấy đi! Anh cắt hai nải lớn nhất cho u. Lại hái cho u mớ chè xanh. Mai u nấu cho họ hàng tới giỗ thầy con.
Đến sâm sẩm thì vợ anh về. Trong nhà nghe rõ tiếng vợ:
- Ai cắt hai nải chuối rồi?
- U lấy đấy!- Anh nói vóng ra.
- Thằng Hạ không sang hay nó tới mà thấy mất hai nải nó không lấy?
Anh nói với ra:
- Tôi cắt cho u cúng thầy hai nải rồi. Ngay kia là giỗ thầy mà.
- Này thì giỗ thầy này. Nghe rõ tiếng dao phầm phập. Anh hớt hải chạy ra.
Ngoài sân người đàn bà vung con dao phát bờ chém như điên dại vào hai buồng chuối. Những nhát chém dồn ứ bao nhiêu uất hận?!
- Dừng tay lại! Dừng lại! Cô điên rồi.
Người đàn bà vẫn chém như điên như dại để tới khi cả hai buồng chuối thành một đám lổn nhổn nát bét.
Anh không kiềm chế được, khi cái phần con người thường nhỏ nhoi chôn cất ở đâu đấy trong anh bật ra từ kẽ nứt. Sao mà tha thứ nữa. Anh chỉ vào mặt người đàn bà vừa xa lạ vừa thân thương kia:
- Cô làm tôi không thể chịu được nữa rồi.
***
Anh bỏ nhà ra bờ sông ngồi, mang theo thanh thuốc nổ TNT. Có mùi thuốc súng thoảng lan ra từ đấy, khi mặt trời phía tây chìm dần. Một khối đỏ ối chìm dần, quanh nó là những đám mây như có bàn tay nào đang rưới máu.
Đêm ấy anh về viết đơn li dị, điều mà suốt hai năm qua anh chưa bao giờ nghĩ tới.
U anh nhất định ở lại với hương án thầy, còn anh phải ra đi:
- Thôi con đi trước. Con đón u vào sau!
- Thôi anh đi đi. Đi cho khuây khỏa. Tôi chịu đựng một mình quen rồi.
- Vâng, thế thì con đi, con sẽ gửi tiền về cho u.
Người kéo vó đêm, trên đoạn sông ngay sát bến đò, đầu làng của Thánh, nửa đêm thấy hai bóng người len lén đi xuống nước.
***
Bạn bè cũ ở thành phố Đà Nẵng bất ngờ thấy cha con anh quay lại nơi anh từng chiến đấu. Không một ai được biết lí do anh quay lại vùng chiến trường cũ, ngoài thủ trưởng đơn vị cũ nay cũng đã chuyển ngành về làm trong ban lãnh đạo thành phố. Ai tò mò hỏi, anh bảo, vợ tôi chết rồi! Mà chết trong anh thật rồi!
Thủ trưởng cũ ân cần nói với anh, cậu cũng nên về đây với chúng tớ. Tất nhiên chưa thể thu xếp nhà ở ngay được, phải ở tạm văn phòng. Cậu có khả năng làm báo chí tuyên truyền, tớ phân công cậu về tờ báo của thành phố.
- Không có việc nào khó cả. - Anh bình tĩnh nói.
Với anh, còn có điều gì sau hậu chiến đau đớn quá đã đẩy anh vào sự chán sống như ngày anh trở về Bắc? Có lẽ đấy là điều khó khăn lớn lao nhất, thử thách khủng khiếp nhất và anh đã vượt qua trong suốt hai năm trời. Khi rời bỏ nơi ấy ra đi, anh đã bỏ lại tất cả nhà cửa đồ đạc cho vợ cũ và người em. Khó nhất là lúc tạm biệt u. Bà dứt khoát không theo anh. U bảo, u sinh ra ở đâu thì chết ở đấy. Nghèo khổ mấy cũng được. Nhưng một điều anh không thể vượt qua được là hành vi của người vợ năm ấy. Nó đẩy anh tới lòng căm giận để chia li. Chả nhẽ cứ hận thù mãi ư? Câu hỏi đó cứ lởn vởn như thường trực trong đầu anh, như vết thương cũ đau đớn chẳng đợi chờ những ngày trở gió. Anh cố lấy công việc để quên đi nỗi buồn tê tái để lại trên quê nhà, nhưng nỗi đau âm ỉ vẫn lẽo đẽo theo anh, dày vò anh, khiến anh nhiều đêm khó ngủ. Mỗi lần như thế, chờ đứa trẻ ngủ rồi, anh rón rén moi trong ba lô “phong bánh khảo”, lấy con dao găm cạo ra một chút và đốt.
Mùi thuốc súng lại lan tỏa sau vệt lửa cháy vụt lên, chợt như cho anh vừa an ủi, vừa tạo ra một mê lực nào đó để anh có thể ngả lưng, trằn trọc rồi nhắm mắt.
***
Thành phố Đà Nẵng sau chiến tranh một thời gian như trở mình vươn dậy. Những cải cách liên tục của thành phố không chỉ cho nhân dân mà cho cả cha con anh. Rồi anh cũng có một căn nhà nhỏ ven sông Hàn. Và anh tư lự một mình nhìn về phương Bắc.
Hình như con người có số phận. Nhất định có số phận như cái ngày thành phố khánh thành tượng Bà Mẹ Âu Cơ sừng sững ngay lối ra biển lớn.
Ngồi ở ghế những đại biểu cựu chiến binh hôm ấy, anh thực bất ngờ khi có một bà mẹ đại biểu nhân dân ở huyện Hòa Vang tìm anh, gọi tên anh và nhất quyết nói, anh là người lính Mậu Thân đã bị thương và nằm lại ở nhà bà trong hầm bí mật cả tuần.
- Cậu là cậu Thánh mà. Tôi nghe người ta giới thiệu tên cậu mà tìm cậu. Cậu nhớ không, má đã tiễn cậu ra tận ngã ba khi quân ta về đón cậu. - Bà má tóc bạc phơ cứ nắm chặt lấy tay anh dứt khoát bảo anh là người lính nào đó.
Đúng là năm Mậu Thân anh đã nằm vài đêm ở cái làng ấy rồi vào đánh Đà Nẵng. Nhưng chiến dịch đó, anh đâu có bị thương. Thủ trưởng ghé tai anh: “Cậu lạ quá. Cả miền Nam này ai chả là mẹ của chúng ta. Đừng để bà cụ thất vọng, ít ra là lúc này, dưới bức tượng mà chúng ta vừa dựng lên”.
Anh ngượng ngùng, gượng gạo ôm lấy bà má. Thế là dưới tượng đài Bà mẹ Âu Cơ của thành phố, anh được nhận một bà mẹ, người đã cưu mang một thương binh nặng năm nào. Bà má, sau bữa ấy, gặp ai là người quen đều hớn hở khoe: “Tôi đã bảo nó dứt khoát quay lại mà!”
Cha con anh được đón về huyện Hòa Vang thăm cả gia đình đã từng che giấu đơn vị anh. Thực không ngờ được, cô gái út của má tên Thắm rất xinh đẹp lại chưa có chồng, là giáo viên dạy văn trong trường con gái anh.
Trong bữa ăn sum họp, bà như trẻ lại vài tuổi: “Má tính, trước sau má cũng sẽ tìm thấy con mà”. Cứ như thế, gia đình má và Thắm đi lại với cha con anh nửa năm.
Nhưng anh là người trung thực. Anh không thể dối trá. Anh đã kể hết với cô giáo cuộc đời mình và nói rằng, anh không phải là người chiến sĩ năm ấy.
Câu chuyện của anh lại rẽ sang chiều hướng khác. Cô giáo trẻ không nói gì. Suốt cả buổi nói chuyện với anh, cô chỉ âm thầm gạt nước mắt. Như con người ta có số phận cứ buộc với nhau bằng sợi dây vô tình. Cô giáo Thắm chăm sóc kèm cặp con anh nhiều hơn, đi lại với cha con anh dầy hơn và anh cũng tự cảm thấy không thể thiếu cô được. Cô dặn, anh cứ để cho má em tin là anh chiến sĩ kia đã trở về nhé! Có thể anh ấy đã hy sinh rồi. Nếu còn sống, chắc anh ấy đã về thăm mẹ em... Ánh trăng chênh chếch từ phía bờ biển soi vào nhà, anh và cô giáo run rẩy như ánh trăng đêm ấy...
***
Mười năm nữa trôi qua. Dù phải nuôi con gái vào Sài Gòn ăn học, tháng nào anh cũng gửi tiền về cho mẹ. Duy nhất một lần anh ra Bắc là lần về chôn cất bu anh. Anh để con gái sang với mẹ nó mà không lời thăm hỏi. Lặng lẽ về và lặng lẽ ra đi.
Nhưng hơn mười năm là cả quãng dài bao sự kiện và chính thời gian lại vừa xóa đi những uất hận vừa khơi gợi lại những kỉ niệm mà dù có muốn quên cũng không dễ mà quên của lòng đau.
Anh nhẩm tính thằng em anh đã 16 tuổi. Nó lớn rồi. Không biết nó sống ra sao? Dù ra sao thì nó vẫn là máu mủ của dòng họ nhà anh, là em ruột của anh. Thế là Thánh bàn với vợ và lại khăn gói trở về Bắc.
Chuyến tầu đưa anh về không nhanh cũng chả chậm. Tầu dừng, từ Hàng Cỏ, anh không đi bộ về làng như ngày nào. Đến đầu làng thì anh bảo xe ôm quay ra cho anh đi bộ.
Anh men theo lối cũ. Làng anh, đường đi lối lại bao biến đổi nhưng con đường ngõ vào nhà anh vẫn thế. Bụi rào cúc tần vẫn còn đó trong đêm, đứng hững hờ, xơ xác.
Anh bàng hoàng trước ngôi nhà của anh mà bây giờ là nhà của vợ cũ. Vẫn tường gạch cũ nứt nẻ và xiêu vẹo từ hồi anh dựng lại. Mái ngói lô xô viên lành viên vỡ. Anh đứng giữa một người đàn bà già nua tàn tạ và thằng bé 16 tuổi gầy trơ xương vì thiếu ăn.
- Em ông bỏ học từ hai năm nay rồi. Tôi lo lắm. Làng xóm bây giờ cứ xổng ra là trẻ con hư. Nghèo quá chả làm sao lo được. - Người vợ cũ thều thào nói. Nói rồi mò tay vào hộc tủ sứt sẹo nứt toang toác lần ra bọc quần áo cũ, bà lôi ra một bọc giấy mở ra trước mắt anh:
- Đây là tất cả tiền của anh gửi cho u. Tôi lậy van thế nào u cũng không tiêu một xu. Nhà có rau thì ăn rau. Có cháo ăn cháo. Khi trăng trối, u gửi lại bảo tiền dành cho tôi. Nhưng mẹ con tôi cũng không dám tiêu đâu. U bảo, nó thương tật thế, làm sao có tiền, chắc nó lại vay mượn của ai...
Suốt đêm anh không ngủ. Cứ lăn bên này lại lăn bên kia trong nhà người em họ. Không ngờ người vợ anh chối bỏ, vẫn lặng lẽ làm dâu. Một nàng dâu không chồng...
Anh lại vục dậy và lục ba lô ra bờ sông ngồi. Anh châm lên ngọn lửa Zippo đốt ít mùn thuốc nổ cạo ra từ thỏi bánh khảo màu đã sậm vàng vì thời gian. Anh hít cho căng lồng ngực cái thứ khói hăng hăng thơm thơm mùi thuốc súng rồi quyết định, không thể chần chừ nữa. Móc điện thoại ra, bất kể khi đó là gần 2 giờ sáng, anh gọi cho Thắm. Anh nói với vợ hoàn toàn tỉnh táo không hề khóc. Giọng anh khô xác trong đêm. Anh không ngờ vợ anh, người con gái Đà Nẵng trả lời gọn lỏn:
- Vâng. Em nghe rõ cả mà. Anh đưa chị và em anh vào đây luôn đi. Bấy giờ người cựu binh hơn 60 tuổi mới bật khóc. Khóc nức nở! Nước mắt tràn trề má anh. Lúc anh quay lại nhà hai mẹ con lại qua bụi cây có dây tơ hồng. Trong đêm tối vắng trăng, anh không nhìn rõ mọi vật, nhưng anh vẫn thấy tất cả. Bàn tay anh sờ nhẹ mơn man vào đám dây tơ nguyệt trên bụi cúc tần mà nhà nào chả có.
Một tuần sau, có người làng đi tát nước tang tảng sáng, bên con đê, thoáng thấy anh đi trước, người vợ cũ và đứa trẻ lụi cụi đi sau, lặng lẽ rời khỏi làng.
Ra đến đầu làng, anh dừng lại, trân trân ngó về hướng nhà cũ, im lặng đến dăm phút rồi quay phắt ra, nắm tay thằng em phăng phăng kéo đi.Việc thu xếp cho vợ cũ và em anh ở Đà Nẵng cũng không hề đơn giản. Nhưng phải rõ ràng và minh bạch. Anh và Thắm bán cả hai xe máy. “Chúng ta sẽ đi bộ một thời gian. An cư thì mới lạc nghiệp!”
Cầm số tiền bán nhà của vợ cũ và tiền tiết kiệm, bán xe của vợ chồng anh, Thánh mua cho hai mẹ con một căn nhà nhỏ trong hẻm phố. Cũng thật may mắn, một doanh nghiệp của đồng đội cũ nhận thằng bé vào xưởng sửa chữa ô tô. Thằng bé cũng sáng dạ và ngoan. Đấy là bạn anh bảo thế.
Nhưng con người ta đâu chỉ ăm ắp niềm vui. Tháng ấy là có ngày giỗ thầy anh. Làm cơm chung cho đại gia đình, anh mời cả mẹ vợ anh lên ăn giỗ.
Chiều ấy anh lại lấy chiếc bánh khảo ra cạo ngoài hiên và đốt. Một vệt lửa và mùi thuốc súng lan ra. Lan ra tận nơi mẹ vợ anh đang ngồi. Bà má Hòa Vang thảng thốt bật dậy: “Mùi gì thế hở các con?”
Thắm thì không lạ gì. Những khi anh buồn, những lúc khó khăn, chị đều thấy chồng làm cái động tác kì cục nhưng đã quá quen thuộc với chị.
- Ảnh ấy đốt thuốc nổ, má ạ!
- Đâu, thuốc gì?
Bà má chạy ra ngoài hiên cầm lên thỏi thuốc màu vàng và sững người:
- Trời ơi cái thứ giết người này. Ba mày cũng bị địch chất quanh và đốt ổng bằng thứ này đây. Thảo nào. Mày giữ nó làm gì hở con. Sao lại như thế. Đừng làm má sợ... Nói rồi má vợ anh bưng mặt khóc. Mớ tóc bạc rung lên.
Sự thật quá rõ ràng và cực kì bất ngờ làm anh sững sờ và bừng tỉnh. Thánh ôm lấy bà má vợ anh và vỗ nhè nhẹ lên vai bà:
- Con xin lỗi, con xin lỗi má.
- Mày vứt ngay thứ ấy xuống biển cho má. Vứt ngay đi! Bà má nói khi đôi vai rung lên, run rẩy.
Anh chộp lấy thỏi bộc phá, thỏi bánh khảo màu vàng sậm đã gắn bó suốt cả tuổi thanh xuân trận mạc kiêu hùng của đời anh, cũng là cuộc đời bất hạnh của riêng anh hay bao nhiêu người đã ngã xuống trên mảnh đất này.
Anh chạy như bay ra bờ biển. Ngay sau tượng đài Bà Mẹ Âu Cơ với trăm bọc trứng, anh liệng nó ra xa. Liệng cho thật xa.
Ném hẳn đi thanh thuốc màu vàng xong, anh đứng thừ ra. Tự nhiên chẳng hiểu sao anh vụt nhớ cái làng nhỏ xa kia và trong đầu anh lại chợt bừng hiện ra, rõ mồn một hình ảnh bờ dậu ven nhà cũ...
Những sợi tơ vàng quấn quýt trong bụi cây, dưới ánh trăng lấp lánh sương ướt, vẫn phân biệt được màu vàng của cây tơ nguyệt và màu xanh của lá, dầu là muôn kiếp, chúng vẫn quấn quýt bên nhau khi khói bếp lam chiều muộn bảng lảng lan ra như mây lành bay trên những ngôi nhà...