Để kinh tế tư nhân là đầu kéo chính cho tăng trưởng
- Huyệt vị
- 13:48 - 02/09/2017
Dây chuyền may xuất khẩu tại Cty may Đức Việt, Hà Nội.
Đây cũng là tinh thần chủ đạo của Nghị quyết số 10-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân (KTTN) trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN, Nghị quyết số 11-NQ/TW về hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN được thông qua tại Hội nghị TW5-Khóa XII của Đảng và đã được TBT Nguyễn Phú Trọng ký ban hành cùng ngày 3/6/2017.
Việt Nam hiện có khoảng 600.000 DN, trong đó có nhiều công ty tư nhân, công ty cổ phần lớn, có thương hiệu mạnh, ngày càng trưởng thành, thu hút 85% lực lượng lao động cả nước, đóng góp khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và 30% NSNN.
Dù có sức vươn mạnh mẽ, song cộng đồng KTTN đa phần có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ thấp và chậm đổi mới; còn nhiều hạn chế về năng lực quản trị, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh, khả năng liên kết với các thành phần kinh tế khác và tham gia chuỗi giá trị trong và ngoài nước… Theo VCCI, có tới 96% DN tư nhân có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, 2% DN quy mô vừa và 2% DN lớn và chỉ được sử dụng chưa đến 30% diện tích đất kinh doanh cả nước. Năm 2016, tổng số DN đăng ký mới và quay lại hoạt động tăng kỷ lục, lần đầu tiên vượt 110.000 DN. Tuy vậy, số DN tạm ngừng hoạt động, chờ giải thể và phá sản còn lớn, với khoảng 73.000 DN; trong 7 tháng đầu năm 2017, con số tương ứng lần lượt là hơn 90.500 DN và 49.882 DN.
Theo tinh thần Nghị quyết số 10-NQ/TW, phát triển KTTN lành mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu cầu khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài, là một phương sách quan trọng để giải phóng sức sản xuất, huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Đặc biệt, KTTN ngày càng trở thành động lực quan trọng, “đầu kéo chính” cho quá trình tăng tốc và tái cơ cấu kinh tế. Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục tạo mọi điều kiện, bảo đảm thực hiện nghiêm minh quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản, các quyền, nghĩa vụ dân sự của các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật để KTTN phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, đa dạng về hình thức, tăng nhanh về lượng và đổi mới về chất, phấn đấu cộng đồng KTTN có trên 1 triệu DN vào năm 2020, đạt 1,5 triệu DN vào năm 2025 và 2 triệu DN vào năm 2030, đồng thời nâng tỷ trong đóng góp của khu vực KTTN lên tới 60-65% GDP. Tốc độ tăng trưởng của KTTN cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Bình quân giai đoạn 2016 - 2025, năng suất lao động tăng khoảng 4 - 5%/năm. Thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ, chất lượng nhân lực và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân so với nhóm dẫn đầu ASEAN-4; Hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước, có đủ khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu.
Chế biến dưa chuột xuất khẩu tại Cty Vifaco (Bắc Giang). Ảnh: Mạnh Dũng
Đặc biệt, động lực mới từ đột phá thể chế cho phát triển KTTN sẽ ngày càng hội tụ và cộng hưởng từ nhận thức và cách làm mới về xây dựng nền sản xuất kiểu mới, gia tăng các chuỗi liên kết và kiến tạo lại nền tảng thị trường hàng hóa phù hợp với nhu cầu, tiêu chuẩn tiêu dùng tiên tiến của thế giới. Xây dựng, triển khai các công cụ quản lý và hỗ trợ mới từ mục đích “quản chặt” sang “hỗ trợ” DN bằng định hướng chính sách, thông tin thị trường và những khuyến khích tài chính, cũng như tinh thần theo ngành, sản phẩm, địa bàn..., chứ không theo từng DN, dự án cụ thể hoặc tính chất sở hữu. Tăng cường năng lực và hiệu lực của các định chế và chế tài, kinh tế, hành chính, cũng như bộ máy tư pháp quốc gia và địa phương nhằm bảo vệ có hiệu quả lợi ích Nhà nước, lợi ích DN, doanh nhân và người lao động, phát triển hệ thống an sinh xã hội, hệ thống phòng ngừa rủi ro, cảnh báo sớm các nguy cơ và giải quyết kịp thời các chấn động kinh tế - xã hội do quá trình thúc đẩy phát triển KTTN và hội nhập kinh tế quốc tế gây ra. Đồng thời, đổi mới công tác cán bộ theo hướng đề cao quy chuẩn hóa, chuyên nghiệp hóa và trách nhiệm cá nhân, người đứng đầu; khắc phục tình trạng bổ nhiệm đúng quy trình hình thức, nhưng không bảo đảm chất lượng cán bộ; coi trọng phát hiện, đào tạo, sử dụng và tôn vinh người tài, người đứng đầu đủ tâm và đủ tầm gánh vác trọng trách; kiên quyết chống những biểu hiện tham nhũng trong công tác cán bộ cũng như thường xuyên phát hiện, xử lý, loại bỏ kịp thời những cán bộ tham nhũng, suy thoái đạo đức, vô trách nhiệm, mất uy tín và trở thành lực cản phát triển; khuyến khích tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, phát triển bao trùm và bền vững; nâng cao vai trò, tính chuyên nghiệp, năng lực và trách nhiệm, hiệu quả hoạt động của các hiệp hội DN trong hỗ trợ DN đầu tư cả trong nước và ra nước ngoài; Coi trọng giáo dục lòng yêu nước tự hào dân tộc và bản lĩnh kinh doanh cho các doanh nhân và người lao động; Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội và các hiệp hội, nghề nghiệp đối với khu vực KTTN, cũng như đối với từng DN.
Ngoài ra, cần phát triển các dịch vụ tư vấn, thông tin và dự báo thị trường, hỗ trợ kinh doanh; giảm thiểu cho khu vực DN các gánh nặng thể chế, tài chính và tín dụng trong đầu tư mở rộng thị trường trong nước và hỗ trợ các doanh nghiệp Việt đầu tư ra nước ngoài; xây dựng văn hóa DN, văn hóa kinh doanh và văn hóa quản lý, thúc đẩy tinh thần tự trọng, tự tôn và tự hào dân tộc, gắn kết và hợp tác công đồng; đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, kiểm soát độc quyền và hạn chế các hiện tượng tiêu cực trốn lậu thuế, làm hàng giả trong sản xuất, kinh doanh.
Chế biến tôm xuất khẩu tại Cà Mau. Ảnh: Quý Đức
Thực tế cho thấy, để phát triển, các DN cũng cần có chiến lược kinh doanh lâu dài, đúng cam kết, đúng tiến độ, thực tâm hình thành mối quan hệ bình đẳng, “cùng thắng” với các bên trong chuỗi liên kết khép kín; có trách nhiệm bảo vệ môi trường, trách nhiệm với xã hội và cộng đồng, xây dựng môi trường lao động an toàn, thân thiện, hài hòa, vượt qua mọi rào cản kỹ thuật quốc gia và quốc tế, đáp ứng các yêu cầu phát triển bền vững.
Công cuộc đổi mới toàn diện và chủ động hội nhập quốc tế đang đòi hỏi chúng ta phải đổi mới tư duy một lần nữa, tạo động lực mới cho phát triển trên tinh thần kiến tạo, giải phóng sức sáng tạo và phát huy toàn diện vai trò của DN, khu vực tư nhân trong mọi công đoạn của chuỗi giá trị sản xuất; tạo cơ hội cho DN, nhà đầu tư có sự lựa chọn và phản ứng nhanh nhậy, đáp ứng hiệu quả hơn với các tín hiệu thị trường, chủ động đổi mới, thích ứng và tập trung vào sản xuất cái mà xã hội, kể cả trong nước và nước ngoài đang cần; tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm, chế biến sâu, trên cơ sở phát huy lợi thế tự nhiên sẵn có gắn với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; tạo ra những sản phẩm hàng hóa và dịch vụ có giá trị gia tăng lớn, có thương hiệu quốc gia đại diện tiêu biểu, góp phần hình thành nên một diện mạo mới cả về kinh tế và vị thế trên thị trường quốc tế của Việt Nam trong những thập niên tới…
Quá trình xóa bỏ những thể chế kìm hãm DN, điều chỉnh những thể chế làm lệch lạc, lãng phí các nguồn lực DN, lấp đầy những “khoảng trống thể chế” cần thiết để hỗ trợ DN phát triển lành mạnh, hiệu quả đã, đang và sẽ cho phép từng bước định hình một tầm nhìn mới, một thực tiễn mới và mở ra triển vọng phát triển mới với nhiều thay đổi về chất đối với vai trò, vị thế và cách thức tổ chức mới của khu vực KTTN trong toàn bộ đời sống kinh tế-xã hội Việt Nam thời kỳ chuyển mình hội nhập cùng thế giới, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”...