Cảnh báo gia tăng bất bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ
- Tra cứu sét nghiệm y khoa
- 13:27 - 04/06/2016
Đó là những khẳng định trong Báo cáo nghiên cứu “Hướng tới Bình đẳng giới ở Việt Nam: Để tăng trưởng bao trùm có lợi cho phụ nữ” được công bố vào sáng 3/6, tại Hà Nội.
Được công bố tại Hà Nội sau một năm thu thập số liệu và phân tích, báo cáo nghiên cứu ‘Hướng tới Bình đẳng giới ở Việt Nam: Để tăng trưởng bao trùm có lợi cho phụ nữ’ do Cơ quan Liên hợp quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền cho Phụ nữ (UN Women) và Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam thực hiện, với sự hỗ trợ của Chính phủ Australia và Phái đoàn Liên minh Châu Âu tại Việt Nam.
Báo cáo chỉ ra rằng, những nỗ lực của Việt Nam trong tăng trưởng và giảm nghèo đang chuyển đổi đất nước từ một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp sang một nền kinh tế đa dạng và hội nhập quốc tế khiến cuộc sống của hàng triệu người dân đã được cải thiện. Tuy nhiên nhà nước cần xây dựng mô hình tăng trưởng bao trùm và bền vững đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền bình đẳng kinh tế và xã hội cũng như phát huy được tiềm năng của phụ nữ.
Phát biểu tại Hội thảo công bố báo cáo nghiên cứu, ông Layton Pike, Phó Đại sứ Úc cho biết: “Chính phủ Australia rất vui mừng được hỗ trợ báo cáo nghiên cứu này bởi báo cáo nhấn mạnh bình đẳng giới không phải một vấn đề bên lề. Từ nông nghiệp đến giáo dục, phụ nữ và nam giới tham gia khác nhau vào các lĩnh vực của nền kinh tế và khác nhau trong việc tiếp cận những nguồn lực và dịch vụ.”
“Chúng ta cần có cách nhìn khác rằng sự chuyển đổi nhanh chóng của nền kinh tế Việt Nam đang ảnh hưởng tới phụ nữ so với nam giới. Vì vậy những chính sách và hành động cần tập trung tạo điều kiện để tất cả mọi người được thụ hưởng công bằng các lợi ích từ việc phát triển kinh tế xã hội” - ông Layton Pike khuyến nghị.
Theo báo cáo này, thì sự hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối tháng 12/2015 và việc ký kết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) vào cuối năm 2015 là những bước tiến xa hơn của Việt Nam trong quá trình hội nhập sâu rộng với quốc tế. Sự tham gia của Việt Nam trong những hiệp định thương mại mới này sẽ mở ra hàng loạt các cơ hội tăng trưởng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong các ngành sản xuất, dệt may và điện tử. Tuy nhiên, kết quả tăng trưởng trong việc làm cho đến nay chủ yếu tập trung vào các công việc không đòi hỏi tay nghề. Các cơ hội về đào tạo, phát triển kỹ năng và thăng tiến trong những ngành nghề này rất hạn chế, đặc biệt đối với phụ nữ.
Là báo cáo toàn diện đầu tiên phân tích nền kinh tế thông qua lăng kính giới, nghiên cứu này đánh giá mô hình tăng trưởng kinh tế hiện nay của Việt Nam, cho thấy mặc dù phụ nữ đang góp một phần lớn trong phát triển kinh tế, việc đạt được mô hình tăng trưởng bao trùm vẫn là một thách thức đối với Việt Nam. Nghiên cứu cảnh báo rằng nếu những lợi ích của tăng trưởng kinh tế được phân bổ không đều và quản lý không tốt, quá trình hội nhập có thể duy trì sự tách biệt về giới trên thị trường lao động, đồng thời làm gia tăng tình trạng dễ bị tổn thương của lao động nữ và duy trì khoảng cách tiền lương giữa hai giới.
“Mô hình tăng trưởng kinh tế hiện tại của Việt Nam chưa chú ý đến việc đảm bảo quyền của phụ nữ được hưởng lợi bình đẳng từ sự phát triển, và nếu các chính sách và ưu tiên hiện thời không được xem xét lại và cải cách từ góc độ giới, hội nhập kinh tế sâu rộng hơn sẽ có thể bỏ phụ nữ lại phía sau”- Bà Shoko Ishikawa, Trưởng Đại diện của UN Women Việt Nam nhấn mạnh.
“Ưu tiên bình đẳng giới cần phải đặt ở trung tâm của các chính sách phát triển. Đầu tư vào phụ nữ là đầu tư vào tăng trưởng kinh tế” bà Shoko Ishikawa chia sẻ thêm.
Báo cáo cũng lưu ý rằng, mặc dù nhiều cơ hội công việc được mở ra cho lao động nữ trong những ngành xuất khẩu, song phụ nữ ít có cơ hội được đào tạo và thăng tiến hơn nam giới, và khoảng cách giới trong thu nhập đang giãn rộng dần theo thời gian. Báo cáo cũng cho thấy, nông nghiệp vẫn là nguồn sinh kế chính của phần lớn người dân, đặc biệt là phụ nữ ở khu vực Bắc Trung bộ và Tây Nguyên, nhưng đa số họ vẫn làm việc mà không được trả công trong các nông trại gia đình. Điều này khiến họ trở nên dễ bị tổn thương, do có rất ít cơ hội đảm bảo thu nhập và năng suất lao động. Giống như ở nhiều quốc gia khác, phụ nữ Việt Nam cũng dành nhiều thời gian hơn để làm công việc nội trợ không được trả công. So với nam giới, gánh nặng công việc không được trả công đã hạn chế khả năng tiếp cận của phụ nữ đến các cơ hội kinh tế và năng lực tham gia của họ vào các công việc được trả công, làm tăng mức độ stress của họ và có tác động đến quan hệ quyền lực trong gia đình.
Nghiên cứu đã đề xuất những khuyến nghị về chính sách để có thể thúc đẩy việc hiện thực hóa tiềm năng của phụ nữ và giúp cho sinh kế của họ đảm bảo hơn, cho dù phụ nữ là những người nông dân làm việc ở quy mô nhỏ, lao động giúp việc gia đình được trả lương hay công nhân nhà máy may. Báo cáo nghiên cứu có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo về vị thế của phụ nữ ở Việt Nam, đồng thời cung cấp các bằng chứng thực tiễn góp phần thúc đẩy mối quan tâm một cách rộng rãi và việc thông qua tất cả các chính sách và chương trình kinh tế có yếu tố giới của Chính phủ Việt Nam.
PGS.TS Đặng Nguyên Anh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã nhấn mạnh việc công bố báo cáo nghiên cứu là một minh chứng sinh động cho sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức quốc tế và trong nước đối với sự nghiệp đấu tranh cho bình đẳng giới ở Việt Nam. Theo ông, để đạt được bình đẳng giới thực sự cho phụ nữ thì các chính sách phải đảm bảo được tính bao trùm xã hội, trong đó đặc biệt chú ý đến phụ nữ và các nhóm dễ bị tổn thương.