THỨ SÁU, NGÀY 20 THÁNG 09 NĂM 2024 10:42

Cần xem xét lại để tránh oan sai

 

Để giúp bạn đọc nhìn nhận vụ việc một cách thấu đáo, báo LĐ&XH đăng tải nội dung giải quyết vụ việc thông qua hai văn bản trên giải quyết vụ việc quá ưu ái cho vợ chồng Trần Thị Xuân Hằng, cũng như nhận định, đánh giá vụ án trên của luật sư Việt Dũng.

Theo bản kết luận điều tra, đầu năm 2011, Nguyễn Thanh Hải và Lê Văn Thìn bàn bạc cùng góp vốn đầu tư xây dựng trạm chiết nạp gas tại ấp Tân Cang, xã Phước Tân, TP Biên Hòa, với tổng số vốn góp là 400.000.000 đồng trong đó Lê Văn Thìn đã góp 200.000.000 đồng, Hải góp 100.000.000 đồng và Lưu Văn Ngọt góp 100.000.000 đồng.

Sau đó, Thìn giao cho Hải trực tiếp tổ chức xây dựng nhà xưởng, nhà văn phòng làm việc, mua sắm trang thiết bị cho Cơ sở chiết nạp gas Xuân Hằng. Để thuận lợi cho việc buôn bán gas thì Hải và Thìn đã sử dụng hồ sơ pháp nhân của DNTN “Xuân Hằng” có trụ sở tại 74C, khu phố 5, phường Trảng Dài (TP Biên Hòa) do Trần Thị Xuân Hằng (Vợ Thìn) làm chủ doanh nghiệp và đặt Trạm chiết nạp gas tại ấp Tân Cang là Chi nhánh của DNTN “Xuân Hằng”.

Khoảng tháng 3/2011, trạm chiết nạp gas hoàn thành và đi vào hoạt động, Nguyễn Thanh Hải và Lê Văn Thìn đã sử dụng hồ sơ pháp nhân của DNTN Xuân Hằng được Sở KH&ĐT Đồng Nai cấp GCN ĐKDN số: 3601949084, cho phép thành lập DNTN Xuân Hằng vào ngày 16/7/2009, do Trần Thị Xuân Hằng làm chủ doanh nghiệp. Lê Văn Thìn đã giao giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh doanh nghiệp (bản phô tô), 2 cuốn giấy giới thiệu, hợp đồng kinh tế trong việc mua bán khí dầu mỏ hóa lỏng cho Hải, Hằng trực tiếp ký xuất hóa đơn GTGT của doanh nghiệp cho các đối tượng tiêu thụ hàng và hợp thức hóa hồ sơ kê khai báo cáo thuế lấy danh nghĩa là DNTN Xuân Hằng và Trần Thị Xuân Hằng ký các hồ sơ báo cáo thuế, xuất hóa đơn GTGT, các hợp đồng mua bán giao dịch với các đơn vị, cá nhân có quan hệ mua, bán với cơ sở chiết nạp gas từ tháng 3/2011.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra, Trần Thị Xuân Hằng khai nhận như sau: DNTN Xuân Hằng được thành lập năm 2009, ngành nghề kinh doanh gồm: Mua bán phế liệu từ gỗ; kinh doanh vận tải chở hàng hóa thuê, mua bán khí hóa lỏng (gas). Vào khoảng tháng 3/2011 Trần Thị Xuân Hằng cho Nguyễn Thanh Hải mượn tư cách pháp nhân của DNTN Xuân Hằng là giấy CNĐK kinh doanh bản phô tô để phục vụ cho việc hoạt động kinh doanh mua bán, sang chiết gas trái phép, đồng thời toàn bộ hồ sơ chứng từ, hóa đơn xuất bán ra, ký các hợp đồng mua gas hàng tháng khi cần ký hồ sơ chứng từ Nguyễn Thanh Hải giao Nguyễn Thiên Đăng là công nhân làm thuê cho Hải đem hồ sơ giấy tờ đến nhà Hằng để ký, trước khi ký hồ sơ Hằng xác nhận đã kiểm tra tính pháp lý đúng đắn hay không, kiểm tra số lượng, giá tiền… sau đó mới ký tên đóng dấu và Hằng xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc đã ký các chứng từ nêu trên. Khi khách hàng mua gas cần xuất hóa đơn GTGT Trần Thị Xuân Hằng căn cứ vào tờ giấy vàng do Đăng cung cấp thể hiện chủng loại, số lượng chai gas, đơn giá, thành tiền và Hằng ký xuất hóa đơn giao lại cho Đăng để giao cho khách hàng. Về hồ sơ kê khai báo cáo thuế hàng tháng của DNTN Xuân Hằng là do anh Bùi Văn Tùng, sinh năm 1965, ở xã Hố Nai 3 (huyện Trảnh Bom, Đồng Nai) thực hiện, mỗi tháng DNTN Xuân Hằng trả lương cho Tùng số tiền 1.500.000 đồng/tháng.

                                                                                                                   Ảnh minh họa

Từ kết quả điều tra ban đầu và kết quả điều tra bổ sung, Cơ quan CSĐT công an TP Biên Hòa nhận thấy:

DNTN Xuân Hằng do Trần Thị Xuân Hằng làm chủ doanh nghiệp, mặc dù không được các cơ quan chức năng có thẩm quyền cấp phép thành lập chi nhánh, thành lập cơ sở chiết nạp gas cũng như các điều kiện khác để hoạt động sang chiết nạp gas tại ấp Tân Cang, nhưng Trần Thị Xuân Hằng vẫn lấy danh nghĩa DNTN Xuân Hằng cho Nguyễn Thanh Hải, Lê Văn Thìn và Lưu Văn Ngọt sử dụng pháp nhân doanh nghiệp để đầu tư trang thiết bị mua máy móc, trụ bơm, bồn chứa gas và hàng tháng Trần Thị Xuân Hằng thuê kế toán là Bùi Văn Tùng để kê khai báo cáo thuế tại Chi cục thuế Biên Hòa nhằm hợp thức hóa cho hoạt động sang chiết gas trái phép. Cơ quan điều tra đang tiếp tục củng cố hồ sơ tài liệu chứng cứ tiếp tục điều tra để xử lý Trần Thị Xuân Hằng về tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” theo quy định của pháp luật.

Theo nội dung tại Bản kết luận điều tra bổ sung số 58 ngày 16/3/2015 và Bản cáo trạng số 553 ngày 11/9/2015 thì cho thấy:

Trần Thị Xuân Hằng có phải là đầu vụ trong vụ án “Sản xuất, buôn bán hàng giả” hay không? Xin bạn đọc đánh giá qua các lời khai được thể hiện tại hai văn bản trên, đó là: - Bất kỳ người nào đọc bản kết luận điều tra bổ sung số 58 và bản cáo trạng số 553 thì cũng cho rằng: Nếu như Trần Thị Xuân Hằng và Lê Văn Thìn không bàn trước với nhau về việc đưa giấy phép đăng ký kinh doanh để xây dựng Cơ sở chiết nạp gas Xuân Hằng thì Lê Văn Thìn có bàn bạc với Hải, Ngọt góp vốn xây dựng Cơ sở chiết nạp gas Xuân Hằng thì chắc chắn Hải và Ngọt sẽ không đồng ý.

Về mặt pháp lý Cơ sở chiết nạp gas Xuân Hằng là thuộc DNTN Xuân Hằng, do đó DNTN Xuân Hằng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hành vi hoạt động của cơ sở chiết nạp gas Xuân Hằng.

Nếu như Trần Thị Xuân Hằng không cung cấp giấy phép đăng ký kinh doanh, không ký các hợp đồng mua bán gas, hóa đơn GTGT, trả lương cho kế toán làm báo cáo thuế thì cơ sở chiết nạp gas Xuân Hằng không thể hoạt động được.

Lê Văn Thìn là chồng Trần Thị Xuân Hằng đã góp vốn 50% và chỉ đạo Nguyễn Thanh Hải xây dựng cơ sở chiết nạp gas Xuân Hằng thì tại sao Cơ quan cảnh sát điều tra và Viện KSND TP Biên Hòa lại đưa Nguyễn Thanh Hải là đầu vụ là không đúng, vì: Khi nghiên cứu nội dung tại Bản kết luận điều tra và Bản cáo trạng của Viện KSND TP Biên Hòa thì phải khẳng định: Hằng và Thìn là người chủ mưu chỉ đạo thực hiện trong việc xây dựng Cơ sở chiết nạp gas Xuân Hằng để kinh doanh.Như vậy có thể kết luận: Tại kết luận điều tra bổ sung số 58 đã tách Trần Thị Xuân Hằng ra khỏi vụ án để điều tra bổ sung, xử lý về tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” là việc giải quyết vụ án không đúng pháp luật - Việc làm này đã nhằm mục đích giảm nhẹ khung hình phạt cho Trần Thị Xuân Hằng và trốn tránh trách nhiệm trong việc bồi thường dân sự mà Hải, Thìn và Ngọt phải chịu.

Tại bản cáo trạng số 553 ngày 11/9/2015, Viện KSND TP Biên Hòa đã xử lý: Đối với Trần Thị Xuân Hằng có dấu hiệu phạm tội “Kinh doanh trái phép”, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP Biên Hòa đang tiếp tục điều tra xử lý sau là việc làm coi thường pháp luật và không đọc hồ sơ vụ án.

Rõ ràng vợ chồng Xuân Hằng đã làm gì thì Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP Biên Hòa và Viện KSND TP Biên Hòa mới có bản kết luận điều tra bổ sung số 58 và bản cáo trạng số 553 đã thể hiện sự ưu ái cho vợ chồng Xuân Hằng như vậy? Việc làm này đã làm mất lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan thực thi pháp luật, nhưng tại sao lãnh đạo Bộ Công an, lãnh đạo Viện KSNDTC, Tỉnh ủy, HĐND, UBND và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai lại không vào cuộc để tạo niềm tin cho dân vào đường lối chính sách pháp luật của Nhà nước và tin tưởng vào các cơ quan pháp luật.

Luật sư: Việt Dũng

CÙNG CHUYÊN MỤC
Xem theo ngày
Tin nên đọc
Báo dân sinh
Báo dân sinh
Báo dân sinh