Tại sao điều chỉnh tuổi nghỉ hưu?
- Dược liệu
- 23:08 - 01/06/2019
Theo Ban soạn thảo luật, các nghiên cứu cho thấy, hiện nay, Việt Nam có quy mô, cơ cấu dân số thay đổi theo hướng số người trong độ tuổi có khả năng lao động giảm do tác động của quá trình già hóa dân số, số người phụ thuộc tăng lên (với 44,4% vào năm 2019). Ðồng thời, chất lượng, thể trạng sức khỏe và tuổi thọ của người lao động ngày càng tăng. Hiện, tuổi thọ bình quân của nam giới là 72,1 tuổi, của nữ giới là 81,3 tuổi; và cả hai giới tính là 76,6 tuổi, cao hơn tuổi thọ trung bình của dân số thế giới (72 tuổi).
Lực lượng lao động tham gia thị trường lao động của Việt Nam những năm gần đây đang tăng chậm. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, cuối năm 2013 cả nước có 53 triệu lao động, cuối năm 2018 có 55 triệu lao động. Sau 5 năm, chỉ tăng thêm hai triệu lao động, trung bình mỗi năm chỉ tăng thêm 400.000 lao động. Lực lượng lao động Việt Nam không quá dồi dào như các đánh giá thông thường và sẽ thiếu hụt trong tương lai. Ðây là nguyên nhân quan trọng dẫn đến cần sớm hoàn thành lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu, trước khi Việt Nam đối mặt tình trạng thiếu hụt lao động trong khoảng 20 năm tới do quá trình già hóa dân số.
Ảnh minh họa
Kinh nghiệm, thông lệ của các quốc gia cho thấy, tuổi nghỉ hưu phổ biến là trên 60 đối với nữ, trên 62 đối với nam. Theo số liệu thống kê của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về quy định tuổi nghỉ hưu của 176 quốc gia: tuổi nghỉ hưu của nữ phổ biến từ 60 đến 62 chiếm 37,5%; tuổi nghỉ hưu của nam phổ biến từ 60 đến 62 chiếm 47,2%.
Nghị quyết số 28-NQ/TW đã nêu rõ "Ðiều chỉnh tuổi nghỉ hưu cần có tầm nhìn dài hạn và có lộ trình phù hợp với tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, thất nghiệp; không gây tác động tiêu cực đến thị trường lao động; bảo đảm số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số; bình đẳng giới; cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội trong dài hạn; xu hướng già hóa dân số; tính chất, loại hình lao động và giữa các ngành nghề, lĩnh vực". Chính vì thế, căn cứ vào các yếu tố kinh tế - xã hội, trên cơ sở nghiên cứu và thảo luận trong Ðề án cải cách chính sách bảo hiểm xã hội khi Ban cán sự Ðảng Chính phủ trình Ban Chấp hành Trung ương xem xét thông qua Nghị quyết 28-NQ/TW, Ban soạn thảo luật đề xuất điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu của nam lên 62, nữ lên 60 trong dự thảo Bộ luật Lao động lần này.
Việc sửa đổi Bộ luật Lao động phải thể chế hóa yêu cầu điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu tại Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội. Ðó là: "Từ năm 2021, thực hiện điều chỉnh tuổi nghỉ hưu theo mục tiêu tăng tuổi nghỉ hưu chung, thu hẹp dần khoảng cách về giới trong quy định tuổi nghỉ hưu; đối với những ngành nghề đặc biệt, người lao động được quyền nghỉ hưu sớm, hoặc muộn hơn 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu chung".
Quán triệt tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW và cụ thể hóa nội dung Ðề án cải cách chính sách bảo hiểm xã hội, để bảo đảm tăng tuổi nghỉ hưu phù hợp quy mô, cơ cấu, chất lượng, thể trạng sức khỏe và tuổi thọ của người lao động Việt Nam, tránh phải điều chỉnh đột ngột lên mức quá cao trong tương lai, bảo đảm góp phần ổn định chính trị - xã hội, Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) đã đưa hai phương án. Theo đó, với phương án 1: Kể từ ngày 1-1-2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi ba tháng đối với nam và đủ 55 tuổi bốn tháng đối với nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm ba tháng đối với nam và bốn tháng đối với nữ cho đến khi nam đủ 62 tuổi, nữ đủ 60 tuổi.
Phương án 2: Kể từ ngày 1-1-2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi bốn tháng đối với nam và đủ 55 tuổi sáu tháng đối với nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm bốn tháng đối với nam và sáu tháng đối với nữ cho đến khi nam đủ 62 tuổi, nữ đủ 60 tuổi. Như vậy, với phương án 1, sau tám năm đối với nam và sau 15 năm đối với nữ; với phương án 2, sau sáu năm với nam và sau 10 năm đối với nữ mới đạt đủ độ tuổi nghỉ hưu này.
Theo Ban soạn thảo luật, kinh nghiệm của các quốc gia đang điều chỉnh tuổi nghỉ hưu và khuyến nghị của ILO đối với các nước điều chỉnh tuổi nghỉ hưu là phải điều chỉnh dần dần để tránh gây sốc cho thị trường lao động. Lộ trình thường thấy ở các nước là một năm tăng ba tháng hoặc một số nước quy định một năm tăng sáu tháng. Một số nước tăng theo lộ trình thận trọng hơn như một năm tăng một tháng hoặc một năm tăng hai tháng.
Việc điều chỉnh dần dần không chỉ cần thời gian cho người lao động và doanh nghiệp thích nghi mà còn cần cho thị trường lao động điều chỉnh. Việc tăng nhanh sẽ dẫn đến sự gia tăng đột ngột số người thất nghiệp, có thể gây bất ổn xã hội. Lộ trình điều chỉnh tuổi chậm có tác động tốt hơn đến tâm lý xã hội của người lao động và doanh nghiệp. Lựa chọn phương án điều chỉnh nâng tuổi nghỉ hưu nhanh có thể dẫn đến số người thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao đột ngột, gây ra những vấn đề xã hội bức xúc. Nâng tuổi nghỉ hưu nhanh cũng có thể tạo ra tâm lý không hài lòng đối với một bộ phận lớn người lao động, nhất là trong các doanh nghiệp.