THỨ SÁU, NGÀY 20 THÁNG 09 NĂM 2024 07:50

Bài 1: Sơn La- Vỡ mộng xóa nghèo từ… “vàng trắng”

Bài 1: Sau 10 năm góp đất trồng cao su dân mong đợi gì?


Người dân trồng cao su tại bản Củ Pe, xã Mường Bon, huyện Mai Sơn, Sơn La không còn mặn mà với cây cao su.


 “Không ngờ chủ trường lớn mà đời mình có ngày buồn đến vậy”

Sau nhiều cuộc điện thoại và chờ đợi cả buổi sáng, đúng 12h trưa chúng tôi nghe thấy tiếng lạch cạch lao gỗ xuống vách núi dựng đứng ở bản Lạnh B, ông Chương trở về sau một buổi đi nương với một khúc củi lớn trên vai. Đây là công việc thường ngày của ông.

Có lẽ ông Lường Văn Chương, Trưởng bản Lạnh B, xã Tông Lạnh, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La chẳng bao giờ nghĩ đến viễn cảnh ngày hôm nay, sau 24 năm đảm nhiệm chức trưởng bản lại cảm thấy “cuộc đời mình có lúc buồn đến vậy”, thời gian qua mỗi ngày trôi qua dài đằng đẵng, dai dẳng như…cao su vậy.

 

Ông Lường Văn Chương, Trưởng bản Lạnh B, xã Tông Lạnh, huyện Thuận Châu.

 

Trở lại “lịch sử” cách đây khoảng 10 năm, khi thực hiện chính sách, chủ trương trồng cây cao su theo cách “đã vào quy hoạch”, ông Chương đã góp 1,6ha đất canh tác ngô, sắn hàng năm của mình  với thu nhập khoảng 20 triệu/năm để trồng cao su. Khi ấy ông Chương cùng 147 hộ dân khác được điền tên vào danh sách những hộ góp đất, hộ góp nhiều lên đến 7ha, hộ ít thì vài trăm mét vuông.

Với những hộ góp đất từ 1ha trở lên sẽ có một “suất” làm công nhân cho Công ty Cổ phần Cao su Sơn La (Công ty Cao su). Và lẽ đương nhiên với 1,6ha đất gia đình ông Chương có một người được nhận vào làm công nhân.

Từ khi góp đất, nguồn thu nhập chính của gia đình phụ thuộc vào đồng lương công nhân theo thời vụ ít ỏi. Khi có việc mới có lương, cuộc sống trở nên khó khăn, không có nguồn thu nhập nào khác, buộc ông Chương phải lên núi canh tác. Đứng ở nhà ông nhìn lên triền núi thấy những đám khói bay ngang như những đám mây lơ lửng giữa bầu trời. Hỏi ra mới biết đó là nơi ông vừa đốt cây cỏ dại để canh tác.

Theo ông Chương kể: “Mình phải bắc thang trèo qua vách núi dựng đứng kia mất khoảng 5 phút, sau đó đi bộ 30 phút nữa mới đến nương, nếu đi xe máy phải vòng khoảng 5km đường gập ghềnh”. Vượt qua bao hiểm nguy để đến được nơi kiếm kế sinh nhai, lúc này ông mới nghĩ đến việc: “Nếu có chỗ đất 1,6ha trước kia chưa góp đất trồng cao su mình trống sắn, ngô, cà phê, cây ăn quả thì cuộc sống sẽ không vất vả như bây giờ.

Khi trò chuyện với vị trưởng bản kỳ cựu, khuôn mặt ông lúc nào cũng buồn, hiện diện bao điều suy nghĩ: “Nếu cứ để cao su thì tương lai không đủ sống do thu hoạch kém quá. Vì trong vòng hai năm cạo mủ với 6.300m2, họ (Công ty Cao su) chia cổ phần được có 1 triệu, nếu trồng ngô sắn giá được cao hơn, giờ nhiều hộ dân muốn đòi lại đất thì khó lắm, nhà mình ký hợp đồng rồi. Ở bản nhiều hộ đã ký và đã đưa cho Công ty Cao su ra xã đóng dấu nhưng chưa thấy đưa lại”.

Ông Trần Hữu Hùng, Trưởng phòng Nông nghiệp Thuận Châu chia sẻ: “Giờ giá thấp nên bà con buồn, lúc trồng là giá mủ cao su hơn 100 triệu/tấn, giờ chỉ còn có 30 triệu/ tấn. Bà con suốt ngày kêu tôi góp đất trồng cao su mà bây giờ sản lượng ít quá, giá lại thấp. Bây giờ toàn huyện bà con ký hợp đồng đến 90%, nên những mất mát cũng như mong muốn của bà con rất khó giải quyết, bà con bỏ cũng không bỏ nổi, vì 10 năm rồi, mà cây cao su – tài sản lại là của công ty, nó là chủ trương lớn không bỏ được”.

Câm lặng trước nỗi lo sinh kế

 Được biết, theo chủ trương của nhà nước, hộ có đất ít góp ít và ngược lại, mình được vận động góp đất, có sản phẩm ra thì sẽ chia theo sản phẩm, bên góp đất được 10%. “Ở bản gia đình góp nhiều nhất là anh bí thư thôn khoảng 7ha. Ngày xưa bà con tham gia làm công nhân nhiều nhưng sau đó ngày có việc, ngày không có việc, thu nhập không đều nên bà con nghỉ gần hết. Hiện tại cây cao su phát triển bình thường, đất tốt được cạo mủ, đất xấu thì chưa” – ông Chương nói.

 

Sau 10 năm mòn mỏi lao động cật lực, cuộc sống người dân trồng cao su ở Thuận Châu gặp nhiều khó khăn, nguy cơ nghèo đói hiện hữu.

 

Rồi ông đưa ra hợp đồng góp QSDĐ để hợp tác trồng cao su và cho biết huyện, tỉnh, trước đây vận động: “đây là vùng quy hoạch trồng cao su, theo chủ trương của nhà nước, nếu không trồng cán bộ bị chỉ trích, kiểm điểm, có phản đối vẫn phải trồng theo quy hoạch”.

 “Chục năm nay có được gì đâu, chỉ năm hết tết đến có ít quà tết cho bà con góp đất. Một số chưa cạo mủ vì cây nhỏ do không chăm sóc tốt, bà con ít việc làm. Cả ba bản có 147 hộ tham gia trồng trên 69ha, khi tham gia góp đất hộ dân có làm hợp đồng, cũng có hộ chưa nhất trí ký, tôi biết có làm ba bản, một bản để dân cầm, một bản Công ty Cao su ký, một bản chính quyền xã ký, đất trước đây chưa có sổ, giờ bảo làm sổ rồi”, vị trưởng bản Lạnh B nói

Trước khi chia tay chúng tôi, ông Chương ngồi ở hiên nhà, hướng ánh mắt nhìn xa xăm, buồn bã chia sẻ: “Tôi có con trai và con dâu không có việc làm nên giờ đi Hà Nội làm thuê, để hai cháu ở nhà. Không biết tương lai các cháu sẽ ra sao. Rồi còn bà con làng bản nữa, giờ bà con rất buồn, không có đất sản xuất nên đi làm thuê, trước đây có gần 60 người làm công nhân cao su giờ chỉ còn có 7 người”.

Không chỉ hộ ông Chương, ở Lạnh B còn có vợ chồng Lò Văn Thuận, vợ Lò Thị Đỉnh góp 3.000m2, nhưng đến nay cao su trên đất của gia đình trồng từ năm 2008 vẫn chưa khai thác được. “Cao su thu nhập không tốt. Trước còn bảo khi nào có nhựa, có mủ thì được cổ phần. Nhưng giờ 10, 11 năm rồi mà chả thấy cái cổ phần đâu” – anh Thuận nói.

“Còn các đất trồng cà phê thì đều đất trong nương có đá nhiều, đất đấy họ không lấy để trồng cao su. Họ khoanh vùng, vào nhà ai thì người đó góp. Đây xã cũng đến vận động, có nhà không nhất trí làm đâu, nhưng xã với bản bảo bây giờ hai bên đều trồng cao su, mình ở giữa mình không góp thì trồng cây gì mà ăn được. Trồng 10 năm rồi, giờ thiếu ăn, nương rẫy thì ít. Cao su mà có kết quả thì dân cũng không bỏ đâu” – ông Thuận buồn rầu chia sẻ

Ông Thuận cho biết thêm: “Trồng từ khi con gái tôi lấy chồng, mà bây giờ con của nó học lớp 5, 6 đấy vẫn chưa thấy cao su cho mủ. Cuối năm thì công ty cho 2 hộp bánh, một chai dầu ăn, một chai nước mắm đấy. Nhà tôi có thằng con đi làm được độ 6-7 năm. Lương không phải tháng nào cũng đều nhau đâu, mà nó tính ngày công ấy, làm mỗi ngày ví dụ đi phát cỏ cứ 120 cây thì được 1 công, 50-60 nghìn, công bón phân thì cao hơn một tí. Bây giờ trong bản cũng nhiều người trồng, nhà tôi cũng có 2.000m2, mới trồng năm ngoái". 

Được biết, thiếu đất canh tác làm họ thay đổi sinh kế. Họ so sánh mỗi ha đất trồng sắn hoặc ngô, mỗi vụ hộ cũng thu được 20-30 triệu. Trồng cao su, họ mất nguồn thu này. Nhiều thành viên trẻ của nhiều hộ đã phải đi tìm việc ở ngoài cộng đồng, đặc biệt là đi làm thuê bên ngoài. Nhiều cặp vợ chồng trẻ để con cái ở nhà với ông bà và đi làm thuê, nhằm mưu sinh.

 

Ông Hồ Anh Đức, Tổng Giám đốc công ty Cao su Sơn La.


Ông Hồ Anh Đức – TGĐ Công ty Cao su Sơn La cho biết: “Hợp đồng ký kiến thiết cơ bản là 8 năm. Hợp đồng có sự thống nhất giữa Tập đoàn, tổng công ty, các ban ngành của tỉnh và người dân. 20 – 22 năm khai thác. Tổng là 30 năm. Năm thứ 9 mới khai thác. Khai thác xong sẽ có tận thu thanh lý gỗ cao su. 2007 tập đoàn đầu tư, toàn bộ vùng hiện nay trồng cao su đều là đất hoang không trồng được bất cứ cây gì, cũng không có rừng, thì tỉnh và tập đoàn có hướng là phát triển cây cao su, tạo công ăn việc làm, thu nhập ổn định trong vòng 20 năm, và 8 năm kiến thiết cơ bản nữa là gần 30 năm.

Hiện tại cuối kiến thiết, cây khép tán, công chăm sóc ít, dân thấy thu nhập ít hơn một chút nên thắc mắc. Vì những lúc đầu khai hoang, trồng mới, đào hố, chăm sóc, rất nhiều công, thu nhập rất ổn định 10-12tr/ lao động/tháng. Trước khi công ty ra đây, hầu như không có cây gì. Vài năm trước thì Sơn La có chính sách phát triển mạnh mẽ, thu nhập từ cây ăn quả bước đầu cao hơn cao su, các hộ dân đang so sánh giữa cao su và cây ăn quả khác”.

 

Bài 2: Trồng cao su 10 năm dân mới ký hợp đồng…góp đất

HOÀNG TƯỞNG-THANH NGỌC

CÙNG CHUYÊN MỤC
Xem theo ngày
Tin nên đọc
Báo dân sinh
Báo dân sinh
Báo dân sinh