Phụ nữ dân tộc thiểu số chịu bất bình đẳng “kép”
- Dược liệu
- 13:38 - 22/11/2017
Toàn cảnh hội thảo.
Kết quả từ cuộc khảo sát quốc gia năm 2015 về tình hình kinh tế - xã hội của 53 DTTS tại Việt Nam cho thấy khoảng cách giới trong các nhóm DTTS và giữa các nhóm DTTS với dân tộc Kinh còn lớn và tồn tại dai dẳng trong nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội và phụ nữ DTTS cũng là nhóm bị thiệt thòi và dễ bị tổn thương.
Cũng theo điều tra này, tỷ tệ hộ nghèo chung của các DTTS năm 2015 là 23,1%, cao hơn gần 4 lần so với mức chung của các nước, trong đó đặc biệt có 14 DTTS có tỷ lệ hộ nghèo rất cao từ 41% trở lên. Các nhóm DTTS bị bất lợi so với nhóm dân đa số về giáo dục và việc làm, khả năng chuyển đổi nơi ở, chỗ làm, tiếp cận các dịch vụ tài chính, các nguồn lực sản xuất như đất đai, tiếp cận thị trường do bị gắn với khuôn mẫu cũng như các rào cản văn hóa khác.
Theo đó, đặc điểm nổi bật của người DTTS là họ tham gia làm việc từ độ tuổi rất trẻ và hầu hết người DTTS trong độ tuổi lao động đều làm việc, điều này thể hiện ở tỷ lệ người DTTS từ 15 tuổi trở lên có việc làm năm 2015 đạt tới 87,55%, cao hơn đáng kể so với tỷ lệ tương ứng của người Kinh là 74,92%.
Về thu nhập, vẫn tồn tại khoảng cách thu nhập giữa hộ gia đình DTTS và người Kinh, giữa chủ hộ là nữ và nam, giữa hộ gia đình DTTS thành thị - nông thôn, các vùng kinh tế - xã hội. Cụ thể, thu nhập bình quân 1 nhân khẩu/tháng của hộ gia đình DTTS năm 2015 là 1,16 triệu đồng, chỉ tương đương với 45% mức bình quân chung của cả nước là 2,6 triệu đồng/người/tháng và bằng 41% mức bình quân của người Kinh.
Bạo lực trong gia đình DTTS xảy ra khá phổ biến, đặc biệt ở gia đình những dân tộc phụ hệ. Theo nghiên cứu có tới 58,6% phụ nữ DTTS từ 15-49 tuổi tin rằng chồng có quyền đánh vợ vì bất kỳ lý do nào trong 5 lý do: Vợ ra ngoài mà không xin phép; Vợ bỏ bê con cái; Vợ cãi lại chồng; Vợ từ chối quan hệ tình dục với chồng; vợ làm cháy thức ăn. Trong khi tỷ lệ này ở phụ nữ Kinh và Hoa chỉ khoảng 28%.
Tảo hôn cao: Các nhóm DTTS có tỷ lệ tảo hôn trung bình là 26,6% (Trong khi ở người Kinh tỷ lệ này chỉ 1,48%) trong đó có 40/53 DTTS có tỷ lệ tảo hôn từ 20% trở lên. Nữ có tỷ lệ tảo hôn cao hơn nam giới DTTS. Điều đáng lo ngại là ở độ tuổi dưới 16, trẻ em nữ DTTS kết hôn cao gấp 3,4 lần trẻ em nam (685 em trai và 2.306 em gái).
Số liệu của Tổng cục Thống kê về hiện trạng mù chữ theo độ tuổi của phụ nữ ở 63 tỉnh, thành phố giai đoạn 2014 - 2015 cho thấy, trong số 65.000 phụ nữ và trẻ em bị mù chữ ở độ tuổi từ 15 - 25 có tới gần 70% là người dân tộc thiểu số.
Phụ nữ và trẻ em gái DTTS không chỉ chịu thiệt thòi trong gia đình, xã hội, các điều kiện cơ bản của cuộc sống trên cơ sở những quan niệm lạc hậu mang tính định kiến giới mà còn phải cam chịu bạo lực trên cơ sở giới. Cơ cấu việc làm của người DTTS vẫn khá lạc hậu, phần lớn gắn với nông nghiệp và lâm nghiệp. Hầu hết người DTTS làm việc và họ chấp nhận công việc nặng nhọc, thu nhập thấp. Các nhóm dân tộc có tỷ trọng làm việc trong nông nghiệp càng cao thì tỷ lệ thất nghiệp càng thấp, thậm chí không có người thất nghiệp.
Đại biểu nữ dân tộc thiểu số tại hội thảo
Giảng viên Học viện Quản lý giáo dục Trương Thị Thúy Hằng chia sẻ, tảo hôn ở đồng bào dân tộc thiểu số vẫn tồn tại; còn xuất hiện tình trạng học sinh cấp Trung học Cơ sở là đồng bào dân tộc thiểu số xin nghỉ học về nhà chăm vợ đẻ, sinh viên vùng dân tộc thiểu số xin nghỉ học về nuôi vợ con. Ngoài ra còn có những vấn đề nổi cộm ở vùng dân tộc thiểu số như: tục cướp vợ, bạo lực gia đình… Để giải quyết những vấn đề này, bà Trương Thị Thúy Hằng cho rằng cần có sự kết hợp hài hòa, giải pháp gốc rễ đối với vấn đề bình đẳng giới, chính sách kinh tế, an sinh xã hội và chính sách về dân số với phụ nữ dân tộc thiểu số. Trẻ em gái và phụ nữ ở vùng dân tộc thiểu số là những đối tượng phải chịu nhiều thiệt thòi như bị lạm dụng tình dục, đánh đập... mà nguyên nhân sâu xa là do bất bình đẳng.
Đặc biệt, trẻ em gái ở nông thôn, miền núi do bị ràng buộc bởi các phong tục, tập quán nên bị thất học rất nhiều. Đây cũng là lý do khiến các em thiếu kiến thức về giới và dễ bị lạm dụng.
Từ những thực tế này, bà Elisa Fernandez, Trưởng văn phòng UN Women Việt Nam cho rằng, việc lồng ghép phát triển DTTS trong hoạch định chiến lược quốc gia không thể thực hiện nếu không có sự hiểu biết rõ ràng về các vấn đề giới ở các vùng DTTS ở Việt Nam. Đáp ứng được các nhu cầu giới phải được xem là một phần quan trọng của chính sách dân tộc.
Để làm được điều này, cần tăng cường các nguồn lực và thông qua mục tiêu cụ thể có trách nhiệm giới. Đồng thời, xây dựng một hệ thống số liệu phân tách giới tính theo nhóm tuổi và dân tộc, nhằm xác định nhu cầu và tình trạng kinh tế - xã hội của phụ nữ và nam giới dân tộc thiểu số hiệu quả hơn.
Bà Nguyễn Thị Tư, Vụ trưởng Vụ DTTS, Uỷ ban dân tộc cho biết, về vấn đề này Uỷ ban đã phối hợp với các bộ, ngành xây dựng chính sách đặc thù hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới, hiện đã trình Chính phủ xem xét và dự kiến ban hành trong thời gian tới. “Với chính sách này, chúng tôi hy vọng sẽ hỗ trợ tích cực hơn cho hoạt động bình đẳng giới của vùng DTTS”, bà Tư nhấn mạnh.