THỨ SÁU, NGÀY 22 THÁNG 11 NĂM 2024 06:45

TP. Huế: Lừa xin việc, nguyên Phó Bí thư Đảng ủy phường bóc lịch 12 năm

 

Sáng 15/9, TAND tỉnh Thừa Thiên Huế đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm đối vợi bị can Nguyễn Văn Tùng, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định tại điểm a khoản 4 Điều 139 của Bộ luật Hình sự.

Từng là một Phó Bí thư Đảng ủy phường, giờ Nguyễn Văn Tùng lại phải đứng trước vành móng ngựa vì tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" 

Làm tội cả người bán vé số

Năm 2013, Tùng nhiều lần gặp và tâm sự với anh Đoàn Quốc Vinh (sn 1964, trú tại 63 Vạn Xuân, phường Kim Long, TP. Huế) là mình có mối quan hệ quen biết với các lãnh đạo tỉnh, nên có khả năng xin tuyển dụng người vào làm cán bộ, công chức, viên chức tại các cơ quan, đơn vị trên địa bàn. Tùng nói với anh Vinh và một số người quen biết khác: “nếu có bà con quen biết hay người nào cần việc làm thì làm hồ sơ rồi liên hệ với Tùng. Tùy theo công việc sẽ có mức giá tiền tương ứng. Nếu xin được việc cho một hồ sơ thì lãnh đạo sẽ trích lại 10%.”

Tin vào lời nói của Tùng, anh Vinh đã nói lại với một số người quen là mình quen biết lãnh đạo, nên có khả năng xin việc được cho những người có nhu cầu. Sau đó, Anh Đoàn Quốc Vinh đã liên hệ với Tùng để xin việc cho 4 trường hợp và đã bị Tùng Chiếm đoạt tổng số tiền là 300 triệu đồng.

Trong số những người thông qua anh Đoàn Quốc Vinh để nhờ Tùng xin việc cho con, có chị Nguyễn Thị H. (trú tại xã Quảng Thọ, Quảng Điền, Thừa Thiên Huế) làm nghề bán vé số. Theo cáo trạng của Viện KSND Thừa Thiên Huế, năm 2013, chị Nguyễn Phúc Cao Nguyên đến uống cà phê tại quán của anh Vinh và được anh Vinh cho biết có quan hệ quên biết với lãnh đạo, nên có khả năng xin được việc làm cho người có nhu cầu. Chị Nguyên đã giới thiệu chị Hồng đến gặp Đoàn Quốc Vinh để nhờ xin việc cho con gái là Nguyễn Thị Thanh L. Anh Vinh liên lạc với Tùng, thì được Tùng đồng ý nhận hồ sơ và hứa sẽ xin vào dạy ở một trường cấp 2 ở huyện Quảng Điền với chi phí 100 triệu đồng.

Anh Vinh nói lại với chị Hồng là sẽ xin được việc cho con gái của chị, với chi phí 120 triệu đồng. Chị Hồng đồng ý và đã giao cho anh Vinh tổng số tiền là 120 triệu đồng cùng hồ sơ xin việc. Sau khi nhận tiền, Đoàn Quốc Vinh giao lại cho Tùng 100 triệu đồng, còn mình giữ lại 20 triệu đồng. Số tiền này tại tòa anh Vinh nói là chi phí cho việc giao tiếp.

Sau khi giao tiền, đợi lâu mà thấy con gái không xin được việc làm, gia đình chị Hồng đã nhiều lần gặp anh Vinh yêu cầu trả lại tiền. Vinh liên hệ với Tùng và được Tùng trả lại 100 triệu đồng. Sau đó anh Đoàn Quốc Vinh đã trả lại cho gia đình chị Hồng 110 triệu đồng, số tiền còn nợ lại là 10 triệu đồng.

Cùng với thủ đoạn tung tin có khả năng xin được việc làm, Tùng đã chiếm đoạt của anh Vinh số tiền 200 triệu đồng. Đây là tiền của các bị hại khác nhờ anh Vinh liên hệ với Tùng để xin việc làm. Cụ thể, chị Châu Thị H (trú tại phường Phường Đúc, TP. Huế) đưa cho anh Vinh 160 triệu đồng theo yêu cầu để xin việc cho con gái vào làm việc tại Phòng TN&MT TP. Huế. Anh Vinh giao lại cho Tùng 140 triệu đồng, giữ lại 20 triệu đồng. Anh Vinh cũng nhận của ông Lê Viết K. (trú tại phường Thủy Dương, thị xã Hương Thủy, Thừa Thiên Huế) số tiền 35 triệu đồng rồi đưa cho Tùng 30 triệu đồng; của người em họ (bà con bên vợ) là Trần Thị Thu Ph. (ở Điền Hương, Phong Điền, Thừa Thiên Huế) số tiền 30 triệu đồng cùng hồ sơ xin việc làm đưa cho Nguyễn Văn Tùng để xin cho con gái anh K. và bản thân chị Ph. Vào làm việc tại phường Phú Cát.

Tại phiên tòa sơ thẩm, HĐXX đã làm rõ, anh Đoàn Quốc Vinh do tin tưởng bị cáo Nguyễn Văn Tùng có khả năng xin được việc làm vào các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, nên đã giới thiệu người quen với Tùng. Do đó, tòa không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với anh Vinh. Đồng thời, kết luận anh Đoàn Quốc Vinh bị bị cáo Tùng chiếm đoạt số tiền 200 triệu đồng.

Ngoài trường hợp của anh Đoàn Quốc Vinh ra, cùng với hành vi lừa đảo xin việc làm, bị cáo Tùng còn trực tiếp nhận tiền và chiếm đoạt của 8 người khác đều cư trú trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Tổng số tiền mà Tùng chiếm đoạt của 9 bị hại là 1 tỷ 420 triệu đồng. Tất cả những trường hợp nhận tiền và hồ sơ xin việc này, Tùng đều viết giấy cam kết, trong đó nói rõ số tiền, nơi xin vào làm việc và thời gian giải quyết.

Làm giả hồ sơ liên quan đến đất đai

Cuối năm 2010, Nguyễn Văn Tùng đến ăn uống tại quán của anh Nguyễn Gia B. (mở tại đường Trịnh Công Sơn, phường Phú Cát, TP. Huế). Tại đây, Tùng đã gặp và nói dối anh B. là mình có lô đất diện tích 200m2 tại đường Trịnh Công Sơn. Tùng nói rằng lô đất này là do UBND TP. Huế cấp cho Tùng thuộc diện cán bộ và nhân dân phường Phú Cát gặp khó khăn với giá 5,5 triệu đồng/m2, nay Tùng muốn chuyển nhượng lại. Nghe vậy, anh B. tưởng thật nên tỏ ý muốn mua.

Tùng yêu cầu anh B. phải đặt cọc trước 50% giá trị lô đất và tiếp tục nói dối anh B. là 50% giá trị còn lại của lô đất, anh B. sẽ trả góp cho Nhà nước trong vòng 10 năm và không phải trả tiền lãi. Khi nào Nhà nước giao đất và thẻ đỏ cho Tùng thì Tùng sẽ chuyển nhượng quyền sử dụng đất và thẻ đỏ cho anh B. Ngày 25/11/2010, anh Nguyễn Gia B. đã giao cho Tùng số tiền 30 triệu đồng. Khi nhận tiền, Tùng có làm giấy biên nhận.

Để anh B. tin tưởng và tiếp tục giao tiền, Nguyễn Văn Tùng đã làm giả thông báo số 1423/UBND – TB ngày 15/11/2011 của UBND TP. Huế bằng cách: Tùng sử dụng máy tính tại nơi làm việc của mình (UBND phường Phú Cát) để soạn thảo văn bản có nội dung “Ủy ban nhân dân thành phố Huế bố trí cho ông Nguyễn Văn Tùng; cán bộ lãnh đạo cơ quan phường Phú Cát 01 lô đất đôi (trên 200m2). Với số tiền ưu đã 1 mét vuông = 5.500.000 đồng.”….và “Thông báo với hộ ông Nguyên Văn Tùng đến Công ty kinh doanh nhà và đất thành phố (HĐGPMB) đặt cọc số tiền 50% là 550.000.000 đồng”.

Sau khi soạn thảo xong nội dung văn bản, Tùng in ra, rồi lấy một văn bản của UBND TP. Huế (thông báo cũ về việc tổng vệ sinh và treo cờ Tổ quốc trong dịp lễ do Tùng cất giữ từ trước) có khuôn dấu và chữ ký của ông Phan Trọng Vinh, Chủ tịch UBND TP. Huế thời điểm đó (bản photocopy) cắt lấy phần có khuôn dấu của UBND TP cùng chữ ký của ông Phan Trọng Vinh, đem dán vào phần dưới của Thông báo do Tùng tự soạn thảo, mang đi photocopy lại rồi đưa cho anh B.

Ngày 5/6/2012, anh B. giao tiếp cho Tùng số tiền 475 triệu đồng. Tùng có viết biên nhận. Ngày 16/10/2013, anh B. lại đưa tiếp cho Tùng 50 triệu đồng nữa nhưng lần này Tùng không viết biên nhận riêng mà viết gộp cả 3 lần với tổng số tiền 550 triệu đồng. Thực tế, cả 3 lần Tùng nhận của anh B tổng số tiền là 555 triệu đồng nhưng do hai bên thống nhất ghi trong biên nhận như vậy là để phù hợp với giá trị 50% giá trị của lô đất.

Ngày 15/4/2014, Tùng tiếp tục làm giả Thông báo số 423/HĐ – TB của Hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng thành phố Huế, với nội dung thông báo nộp thêm tiền để phục vụ cho hệ thống điên, nước. Thông báo này Tùng tự soạn thảo toàn bộ nội dung, lấy tên một đơn vị không có trên thực tế là Hội đồng giải phóng thành phố Huế. Nguyễn Văn Tùng tự ký văn bản và ghi chức danh là Trưởng phòng, đặt tên người ký là Nguyễn Minh Tuấn. Con dấu được Tùng sử dụng là con dấu của HĐND phường Phú Cát (do Tùng giữ), đóng mờ nhòe vào Thông báo 423 rồi đem đi photo rồi đưa cho anh Bình. Ngày 20/5/2014, anh B. đưa cho Tùng thêm 40 triệu đồng. Tại lần giao nhận này, Tùng viết giấy biên nhận tiền với tổng số tiền nhận từ anh B. là 595 triệu đồng.

Ngoài ra, Nguyễn Văn Tùng còn tự mua một số hóa đơn bán lẻ rồi điền các thông tin về nộp tiền liên quan đến thửa đất bán cho anh B.; tự ký vào phần dành cho người lập phiếu, người thu tiền và thủ quỹ, sau đó đưa bản photo cho anh B.

Tổng cộng Nguyễn Văn Tùng chiếm đoạt của anh B. tổng số tiền là 595 triệu đồng. Hiện Tùng đã đền bù cho anh B. 150 triệu đồng.

Kết quả điều tra xác minh lô đất mà Tùng giới thiệu bán cho anh B. nằm trong khu vực các thửa đất số 272, 274, 275 và 276 thuộc Tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại bờ sông Hương. Toàn bộ diện tích đất này nằm trong khu vực thu hồi để thực hiện dự án chỉnh trang bờ sông Hương. Khoảng thời gian từ tháng 11/2010 đến 5/2015, các thửa đất này đã được thu hồi sau khi di dời, giải tỏa các hộ dân và đang được UBND TP. Huế quản lý để thực hiện dự án trên. Tại thời điểm trên, không có cá nhân, tổ chức nào được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất trên.

Cùng với phương thức lừa đảo tương tự, Nguyễn Văn Tùng đã chiếm đoạt của anh Lê Văn H. (sn 1971, trú tại phường Thuận Lộc, TP. Huế) số tiền 210 triệu đồng.

Như vậy trong khoảng thời gian từ tháng 11/2010 đến 4/2015, Nguyễn Văn Tùng đã có thủ đoạn gian dối bằng cách làm giả nhiều loại giấy tờ liên quan đến đất đai, chuyển nhượng đất không thuộc sở hữu của mình cho các anh Nguyễn Gia B. và anh Lê Văn H., để chiếm đoạt tổng số tiền 805 triệu đồng.

Tổng hợp cả 2 hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bị cáo Nguyễn Văn Tùng đã chiếm đoạt tổng số tiền 2 tỷ 225 triệu đồng của 11 bị hại. Riêng về hành vi làm giả hồ sơ, giấy tờ của các cơ quan tổ chức do trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra tiến hành giám định không có kết quả, không có văn bản gốc để đối chiếu. Các văn bản đều do Tùng soạn thảo, cắt ghép, in ấn và mang đi photocopy nên không có cơ sở để khởi tố.

Lừa đảo phục vụ thói quen ăn nhậu và cái kết đích đáng

Tại phiên tòa xét sử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Văn Tùng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đồng thời, bị cáo cũng khai không đem tiền do lừa đảo mà có về cho vợ con hay sắm sửa vật dụng cho gia đình mà mang đi tiêu xài cá nhân, phục vụ thói quen ăn nhậu, đi bar, vũ trường,…

Từ các chứng cứ do cơ quan điều tra cung cấp; từ lời khai của cả bị cáo, bị hại và những người làm chứng trong quá trình điều tra và tại phiên toàn xét sử sơ thẩm; căn cứ các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ: đối tượng phạm tội nhiều lần (11 người bị lừa đảo), gây hậu quả nghiêm trọng, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự xã hội. Tuy nhiên trước khi phạm tội, bị cáo có thân nhân tốt, từng là Đảng viên và hoàn thành tốt nhiệm vụ công dân; trong quá trình điều tra và xét xử, bị cáo Tùng đã thành khẩn khai báo; chủ động khắc phục một phần hậu quả và có 1 bị hại viết đơn xin giảm nhẹ tội cho bị cáo.

Kết thúc phiên tòa, HĐXX sơ thẩm TAND tỉnh Thừa Thiên Huế tuyên phạt bị cáo Nguyễn Văn Tùng 12 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, đồng thời buộc bị cáo phải bồi thường tổng số tiền cho các bị hại hơn 1,3 tỷ đồng.

       

Thảo Vi

CÙNG CHUYÊN MỤC
Xem theo ngày
Tin nên đọc
Báo dân sinh
Báo dân sinh
Báo dân sinh