Bảo đảm quyền lợi tối đa cho người lao động
- Bài thuốc hay
- 16:40 - 19/04/2015
Nhiều bất cập!
Dư luận vẫn còn băn khoăn về vụ tai nạn LĐ đáng tiếc xảy ra tại KCN Formosa (Hà Tĩnh) khiến 13 người thiệt mạng. Một trong những chi tiết gây bức xúc chính là trong số những công nhân thiệt mạng, có những công nhân mới vào làm việc tại đây chỉ 2 ngày - chưa hề đủ thời gian để đào tạo, huấn luyện những kỹ năng cần thiết về ATVSLĐ. Điều này đặt ra câu hỏi về thực trạng đào tạo ATVSLĐ hiện nay ở không ít trung tâm huấn luyện và trong DN.
Tai nạn lao động luôn rình rập người lao động
Ông Keisuke Taniguchi (Cty TNHH Canon Việt Nam), đại diện Hiệp hội DN Nhật Bản, đã thẳng thắn chỉ ra những bất cập trong quá trình thực thi ATVSLĐ tại nhiều DN hiện nay ở Việt Nam. Điều mà ông Seisuke cảm thấy bất ngờ nhất là gần 20 năm, danh mục các ngành nghề nguy hiểm, độc hại vẫn chưa được xem xét cập nhật lại.
“Khoảng thời gian bỏ quên quá lâu để cập nhật danh mục này, vì đây là căn cứ sát nhất để xét đến tỉ lệ chi trả BH tai nạn LĐ khi sự cố xảy ra, tránh hiện tượng “cá mè một lứa” rất thiệt thòi cho NLĐ. Ví dụ ở Nhật Bản, phí BH tai nạn LĐ chênh nhau đến 30 - 50 lần tùy ngành nghề, như tỉ lệ BH đối với ngành lắp ráp điện chỉ 0,3% trong khi đối với ngành than, kim loại là 8,8% - cách nhau 30 lần” - đại diện Hiệp hội DN Nhật Bản chia sẻ.
Sập giàn giáo ở Formosa (Hà Tĩnh) (ảnh Zing.vn)
Theo ông Seisuke, không chỉ cần thiết cập nhật thông tin danh mục này càng sớm càng tốt, việc hoàn thiện danh mục cũng nên có liên kết với DN để có cơ sở về mặt thực tế. Ông cũng đưa ra một gợi ý thiết thực liên quan đến vấn đề đào tạo, huấn luyện ATVSLĐ, đó là nên linh hoạt theo nhu cầu thực tế của chủ DN. Theo ông, DN cần tự chủ, tùy tình hình điều kiện, nhất là những ngành ít có rủi ro về ATVSLĐ để phân công và tự đào tạo NLĐ cho phù hợp. Các cơ quan nhà nước cần ghi nhận thành quả đào tạo này, hợp thức hóa để DN dễ hoạt động hơn, thay vì cứ bắt họ phải tuân theo một quy định cứng là cần phải đào tạo bao nhiêu NLĐ, đào tạo quy trình ra sao. Ông Seisuke thiết tha mong những đề xuất của mình lồng ghép vào các văn bản pháp quy nhằm tăng tính hiệu lực và tính thực thi luật pháp về vấn đề ATVSLĐ.
Trước những gợi ý thiết thực của ông Seisuke Taniguchi, Thứ trưởng Bộ LĐ-TB&XH, Doãn Mậu Diệp cũng thừa nhận việc sửa đổi danh mục 20 năm qua thực hiện rất chậm. Thứ trưởng còn nêu dẫn chứng, có những xét nghiệm rủi ro nghề nghiệp nguy cơ cao cũng đã mang đi thực hiện nhưng đến nay vẫn chưa được công bố.
Ông cũng hoàn toàn tán thành việc đối với ngành nghề có nguy cơ rủi ro, độc hại, DN cần có trách nhiệm đào tạo chứ không thể trông chờ hết vào các trung tâm huấn luyện ATVSLĐ, bởi thực tế là các trung tâm này không thể bao phủ hết lượng LĐ lớn cả nước. Việc phân loại các ngành nghề nguy cơ rủi ro cao, theo ông Doãn Mậu Diệp, là căn cứ pháp lý quan trọng để tính toán hợp lý tỉ lệ chi trả BH tai nạn LĐ. “Tuy nhiên, thực tế nước ta chưa cho phép, việc phân loại các danh mục ngành nghề cần phải được xem xét trước hết theo các mức nguy cơ cao, trung bình, thấp”.
Bàn đến các bất cập liên quan đến chính sách về ATVSLĐ cho NLĐ hiện nay, chuyên gia cao cấp của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tại Thái Lan - bà Ingrid Christensen, cho rằng, còn hàng triệu LĐ khu vực phi kết cấu vẫn chưa được hưởng bất cứ chính sách nào về ATVSLĐ.
Theo bà, khi xảy ra sự cố, nhóm LĐ này sẽ phàn nàn, khiếu nại được với ai ngoài chính họ? Vấn đề đền bù theo đó cũng bỏ ngỏ.
Bà khuyến nghị việc mở rộng đối tượng khu vực này là rất cần thiết, theo đó khuyến khích họ mua BH tai nạn LĐ tự nguyện.
Ngoài ra, bà Christensen cũng chỉ ra một bất cập không nhỏ ở nhiều DN tại Việt Nam hiện nay, đó là không có quy tắc bảo mật tối đa thông tin về sức khỏe của NLĐ.
“Chủ sở hữu LĐ chỉ cần biết sức khỏe của NLĐ ở mức độ có đáp ứng đủ yêu cầu công việc hay không, chứ không nên biết quá chi tiết đến tiền sử sức khỏe của NLĐ. Điều này vẫn chưa được chú ý tại nhiều DN ở VN. Hệ quả là NLĐ dễ bị phân biệt đối xử. Ví dụ, khi biết NLĐ có tiền sử bệnh tiểu đường, chủ sở hữu chắc chắn sẽ thiếu tin tưởng đến người này và sẽ nghĩ đến việc tìm LĐ khác thay thế dù người đó vẫn đang làm việc bình thường” - bà Christensen nêu thực tế.
Trong quá trình tham vấn chính sách, cơ sở pháp lý cho NLĐ liên quan đến vấn đề ATVSLĐ, nhiều chuyên gia cho rằng, cần khắc phục nhiều bất cập khác với mục đích tạo điều kiện tối đa cho NLĐ tham gia lao động an toàn.
Một gợi ý hay của bà là khi triển khai luật ATVSLĐ nhiều Bộ, ngành, thay vì mỗi bộ ra 1 thông tư thì có thể các bộ ngồi với nhau để giao thoa, từ đó có 1 bản hướng dẫn chung cho DN và DN chỉ cần 1 bản này thôi, như vậy sẽ ổn hơn nhiều so với quá nhiều văn bản thông tư.
“Gỡ” khó bằng Luật ATVSLĐ?
Một trong những tín hiệu vui cho NLĐ là tháng 5.2015, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa 13, Luật ATVSLĐ sẽ được Quốc hội thông qua sau nhiều thời gian tham vấn, lấy ý kiến đóng góp. Thành viên Ban soạn thảo Dự thảo Luật, Thứ trưởng Doãn Mậu Diệp, thẳng thắn nhìn nhận, vì là lần đầu tiên xây dựng luật nên có quá nhiều thách thức đặt ra. Nhiều vấn đề chính sách mang tính liên đới, theo đó không chỉ mỗi Bộ LĐ-TB&XH tham gia mà còn cần sự vào cuộc của nhiều bộ, ngành chức năng khác.
“Dự thảo Luật có khá nhiều tham vọng, nhưng vì có nhiều vấn đề thách thức nên vẫn hạn chế. Việc tham vấn, tư vấn, lấy ý kiến đóng góp từ nhiều tổ chức, ban ngành chức năng là rất cần thiết” - ông Diệp nhấn mạnh.
Dự án Luật ATVSLĐ nhận được gần 80 ý kiến đóng góp của đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 8 vào cuối năm 2014. Sau kỳ họp, Ủy ban Các vấn đề xã hội đã phối hợp với Bộ LĐ-TB&XH và các cơ quan có liên quan tiến hành tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật trên cơ sở ý kiến các vị đại biểu Quốc hội, đồng thời, tổ chức lấy ý kiến một số địa phương, NLĐ, người sử dụng LĐ về Dự thảo Luật. Những nội dung lớn được tiếp thu, chỉnh lý gồm mở rộng đối tượng áp dụng và chính sách đối với khu vực không có quan hệ LĐ, chính sách BH tai nạn LĐ, bệnh nghề nghiệp theo hình thức tự nguyện và bắt buộc, ban hành tiêu chuẩn quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về ATVSLĐ.
Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Các vấn đề xã hội, ông Bùi Sĩ Lợi cho biết: “Là một đất nước có tới gần 70% LĐ làm việc trong khu vực không có quan hệ LĐ, việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật phải hướng tới mục tiêu mở rộng phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của chính sách tới NLĐ đang làm việc trong khu vực này nhằm từng bước bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của mọi người dân”.
Tuy nhiên, theo ông Bùi Sĩ Lợi, việc thực hiện mục tiêu này còn có nhiều khó khăn, thách thức do nguồn lực, khả năng quản lý, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta còn hạn hẹp nên việc thiết kế các chính sách phải mang tính khả thi, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội cụ thể của đất nước trong từng thời kỳ. Bộ LĐ-TB&XH là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về lĩnh vực này và các bộ, ngành có liên quan như Bộ Y tế, Bộ Công thương, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Xây dựng… tham gia phối hợp trong một số nhiệm vụ cụ thể. Dự thảo Luật sẽ được trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 9 vào tháng 5/2015.
Để giải quyết hết mọi bất cập, Ban soạn thảo Dự thảo Luật cũng khẳng định sẽ còn quá nhiều việc phải làm để hoàn thiện. Thứ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Doãn Mậu Diệp chia sẻ: “Tham vọng rất nhiều, đồng nghĩa với việc thách thức khó khăn không hề nhỏ, hơn nữa lại là lần đầu tiên xây dựng luật nên sẽ không tránh khỏi những băn khoăn. Nhưng dự luật sẽ luôn thực hiện trên quan điểm đảm bảo quyền lợi tối đa cho NLĐ, giúp bảo vệ họ khỏi những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình lao động. Đây sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng cho NLĐ Việt Nam sau khi được Quốc hội thông qua”.