Nâng tầm kỹ năng lao động Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
- Giáo dục nghề nghiệp
- 08:24 - 25/10/2022
Với quan điểm Nâng tầm kỹ năng lao động (KNLĐ) là hoàn thiện, nâng cao kỹ năng, năng lực nghề nghiệp của người lao động, phải bám sát nhu cầu thị trường lao động (TTLĐ); phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), chiến lược và quy hoạch phát triển nhân lực; thích ứng nhanh với những biến động xã hội và sự tiến bộ của khoa học công nghệ trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đảm bảo phát triển kinh tế gắn với an sinh xã hội, hội nhập quốc tế. Nâng tầm KNLĐ phải coi trọng năng lực, kinh nghiệm, phẩm chất của người lao động, được thực hiện thường xuyên, liên tục cả trước, trong quá trình tham gia lao động; đảm bảo minh bạch, dễ tiếp cận, phù hợp với các đối tượng, nhất là phụ nữ, nhóm yếu thế, gắn với việc chuẩn hóa, công nhận trình độ kỹ năng, năng lực nghề nghiệp của người lao động. Nhà nước có chính sách quản lý phù hợp, đầu tư thích đáng cho nâng tầm KNLĐ, nhất là kỹ năng của nhân lực chất lượng cao, nhân lực các ngành nghề thuộc lĩnh vực kinh tế ưu tiên, ngành công nghiệp mũi nhọn, ứng dụng công nghệ mới, công nghệ cao, nhân lực các nghề có công việc yêu cầu phải có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia; quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn lực đầu tư; được chú trọng trong các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, dự án phát triển quốc gia, của ngành và địa phương.
Theo dự thảo, mục tiêu của Đề án là chuẩn hóa và phát triển kỹ năng nghề cho người lao động giúp hình thành nguồn nhân lực có chất lượng, nhất là nhân lực có trình độ kỹ năng nghề cao để nâng cao NSLĐ, tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, đáp ứng yêu cầu phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, thích ứng với cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế; nâng xếp hạng chỉ số kỹ năng lực lượng lao động Việt Nam bắt kịp, tiến cùng các nước ASEAN – 4 và tiếp cận các nước phát triển.
Về mục tiêu cụ thể đến năm 2030, sẽ chuẩn hóa trình độ KNNQG cho khoảng 50% lực lượng lao động. Trong đó, trên 30% lao động đạt trình độ cao có bậc trình độ KNNQG 4, 5 hoặc trình độ tương ứng, trong đó ưu tiên người lao động làm việc trong các ngành, nghề thuộc công nghiệp mũi nhọn, ứng dụng công nghệ mới, công nghệ cao; người lao động thuộc các ngành nghề kinh tế trọng điểm, ưu tiên, chương trình phát triển kinh tế xã hội bền vững. Khoảng 70% lao động đạt các bậc trình độ còn lại, trong đó ưu tiên lao động là thanh niên từ 15 đến 30 tuổi; lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp, lao động yếu thế.
Thứ hai, đảm bảo cơ hội tiếp cận về đào tạo, phát triển kỹ năng nghề, học tập suốt đời cho trên 70% lực lượng lao động. Xây dựng mới và cập nhật khoảng 500 bộ tiêu chuẩn KNNQG, 500 bộ ngân hàng câu hỏi kiến thức, bài thi thực hành tương ứng từng nghề để phát triển chuẩn đầu ra theo tiêu chuẩn KNNQG, xây dựng chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề.
Phát triển hệ thống gồm 200 tổ chức đánh giá kỹ năng nghề, trong đó 60% tổ chức thuộc doanh nghiệp; 40% tổ chức đánh giá kỹ năng nghề thực hiện được hoạt động đánh giá, cấp chứng chỉ KNNQG theo hình thức trực tuyến.
Đầu tư và phát triển 3 tổ chức đánh giá kỹ năng nghề trọng điểm cấp quốc gia và 10 tổ chức đánh giá kỹ năng nghề trọng điểm cấp vùng; 01 trung tâm quốc gia, 03 trung tâm vùng dự báo kỹ năng tương lai đáp ứng nhu cầu phát triển kỹ năng lao động thời kỳ mới.
Ít nhất 50 hội đồng kỹ năng ngành, nghề cấp ngành được thành lập; 50% trường cao đẳng, 50% cơ sở đào tạo khác có hội đồng kỹ năng ngành, nghề cấp cơ sở.
Đào tạo, phát triển 10.000 đánh giá viên KNNQG, trong đó khoảng 60% là đánh giá viên thuộc doanh nghiệp.
50% lực lượng lao động được khảo sát, thống kê, thông tin về kỹ năng thiếu hụt và sự thiếu hụt kỹ năng ứng với nghề nghiệp cụ thể.
Thứ ba, nâng cao chất lượng lao động qua đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng nghề gắn với đánh giá, cấp chứng chỉ KNNQG, đảm bảo trên 90% lao động được chuẩn hóa đáp ứng yêu cầu của TTLĐ trong nước và tham gia hiệu quả thị trường lao động quốc tế.
Nâng xếp hạng chỉ số kỹ năng nghề lực lượng lao động thuộc nhóm 80 quốc gia đứng đầu.
Tỷ lệ người lao động qua đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề gắn với đánh giá, công nhận trình độ KNNQG có việc làm, duy trì việc làm tại doanh nghiệp đạt 85%. Trong đó, 90% được doanh nghiệp tuyển dụng và sử dụng đánh giá hài lòng với chất lượng lao động; 90% người lao động được được tuyển dụng, sử dụng, trả tiền công, tiền lương theo trình độ kỹ năng, năng lực nghề nghiệp.
Thứ tư, phấn đấu 80% lao động đang làm việc tại doanh nghiệp được đào tạo, bồi dưỡng, trang bị kỹ năng, năng lực cơ bản; tiến tới phổ cập kỹ năng, năng lực cơ bản cho người lao động.
Về định hướng đến năm 2045, nâng tầm kỹ năng lao động Việt Nam nhằm phát triển nguồn nhân lực có trình độ kỹ năng nghề cao đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, bắt kịp, tiến cùng trình độ tiên tiến của thế giới; nâng xếp hạng chỉ số kỹ năng nghề lực lượng lao động thuộc nhóm 60 nước đứng đầu, góp phần đưa đất nước trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao.
Để đạt được các mục tiêu nêu trên, Đề án đã nêu ra 8 nhóm giải phát cụ thể.
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, chính sách và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về phát triển kỹ năng nghề cho người lao động trong thời kỳ mới. Bao gồm nhóm thể chế, chính sách chung và nhóm chính sách ưu tiên, hỗ trợ đối với người lao động, tổ chức đánh giá kỹ năng nghề và doanh nghiệp.
Thứ hai, tổ chức thông tin, tuyên truyền, tôn vinh về nâng tầm KNLĐ Việt Nam.
Thứ ba, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về chuẩn hóa và phát triển KNLĐ. Thứ tư, xây dựng tiêu chuẩn KNNQG và nâng cao năng lực hệ thống đánh giá, cấp chứng chỉ KNNQG.
Thứ năm, thúc đẩy đào tạo gắn với nhu cầu của doanh nghiệp và hình thành hội đồng kỹ năng ngành, nghề các cấp.
Thứ sáu, phát triển đội ngũ lao động chất lượng cao, chuyên gia trình độ kỹ năng nghề cao.
Thứ bảy, tăng cường hợp tác quốc tế, nghiên cứu khoa học về phát triển KNLĐ Việt Namvà tư vấn, định hướng nghề nghiệp cho người lao động.
Thứ tám, tăng cường kiểm tra, đánh giá, tổng kết kết quả nâng tầm KNLĐ Việt Nam.