Nâng cao chất lượng, gạo Việt Nam bán giá cao hơn của Thái Lan, Ấn Độ
- Huyệt vị
- 20:41 - 02/07/2018
Giá gạo trắng 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam đạt 450 USD/tấn, trong khi giá gạo xuất khẩu cùng loại của Ấn Độ đạt 410 USD/tấn và của Thái Lan đạt 435 USD/tấn. Trên thị trường thế giới, giá gạo tại Thái Lan giảm xuống mức thấp nhất trong năm nay do nhu cầu ảm đạm và triển vọng nguồn cung dồi dào, trong khi giá gạo Ấn Độ giảm do sức mua kém từ châu Phi và Bangladesh.
Xuất khẩu gạo của Việt Nam tiếp tục tăng trưởng ấn tượng.
Tuy nhiên, xuất khẩu gạo của Việt Nam trong tháng 6/2018 ước đạt 604.000 tấn, giá trị đạt 317 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu gạo 6 tháng đầu năm 2018 ước đạt 3,56 triệu tấn, giá trị đạt 1,81 tỷ USD, tăng 25% về khối lượng và tăng 42% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017.
Số liệu cập nhật trong 5 tháng đầu năm 2018 cho thấy Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam với 30% thị phần (đạt 844.000 tấn và 499,4 triệu USD), đứng thứ 2 là Indonesia với 18,7% thị phần (đạt 596.000 tấn và 280 triệu USD). Trong 5 tháng đầu năm xuất khẩu sang Trung Quốc giảm 21,3% (đạt 844.000 tấn). Các thị trường có mức xuất khẩu tăng, điển hình là Indonesia 596.000 tấn, Iraq 150.000 tấn, Malaysia với 273.000 tấn (gấp 2,51 lần), và Hoa Kỳ với 26.200 tấn (gấp 2,36 lần) so với cùng kỳ năm 2017.
Trong tháng 6/2018, giá gạo xuất khẩu của các nước lớn đều giảm. Tuy nhiên, giá gạo trắng 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam đạt 450 USD/tấn, vẫn cao hơn so với sản phẩm cùng loại của Ấn Độ và Thái Lan.
Giá gạo xuất khẩu cùng loại của Ấn Độ đạt 410 USD/tấn và của Thái Lan đạt 435 USD/tấn. Giá gạo xuất khẩu các nước xuất khẩu lớn đều giảm so với tháng trước do nhu cầu nhập khẩu từ các thị trường chính như Indonesia, Philippines, châu Phi, Bangladesh đều giảm.
Lý giải về việc giá gạo Việt Nam được giá hơn Thái Lan, Ấn Độ Bộ NN&PTNT cho biết, cơ cấu giống lúa gạo thời gian qua đã có sự thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng các giống lúa thơm, lúa chất lượng cao, tạo động lực cho xuất khẩu khởi sắc.
Theo đó, các loại gạo chất lượng cao đang chiếm ưu thế trong cơ cấu giống, lên đến 32%, gạo thơm khoảng 25%, nếp chiếm 15%, gạo chất lượng trung bình 24%, còn lại là các loại gạo khác. Điều này cũng phù hợp với cơ cấu gạo xuất khẩu Hiệp hội Lương thực Việt Nam đưa ra với 32% sản lượng xuất khẩu là gạo chất lượng cao, 30% gạo thơm, nếp và Japonica chiếm 23%, 5% còn lại là gạo có phẩm cấp trung bình.
Để giữ vững thành quả tăng trưởng của ngành, Cục Trồng trọt khuyến cáo các địa phương tiếp tục tăng diện tích các giống lúa thơm, lúa chất lượng cao, đang được coi là lợi thế xuất khẩu của Việt Nam; giữ ổn định tỷ lệ giống lúa nếp ở mức 10%, không nên mở rộng hơn vì thị trường xuất khẩu hẹp và đã ổn định (chủ yếu phục vụ thị trường Trung Quốc); có thể tăng diện tích giống lúa Japonica từ 4% hiện nay lên 6 – 7% vì triển vọng thị trường đang tốt.