THỨ SÁU, NGÀY 22 THÁNG 11 NĂM 2024 07:13

Lương không đủ sống: Cuộc sống bấp bênh của lao động ngành may

Toàn cảnh Hội thảo 

 

Đó là thông tin được đưa ra tại hội thảo "Thu nhập của lao động may mặc ở Việt Nam- thực trạng và giải pháp" vừa được tổ chức vào ngày 11/4 tại Hà Nội.

Thu nhập trung bình của lao động ngành may dưới 5 triệu

Chia sẻ tại Hội thảo về kết quả khảo sát thực trạng trả lương của ngành may và các rào cản để người lao động có mức lương đủ sống, ông Lê Đình Quảng - Phó trưởng ban Quan hệ lao động (Tổng LĐLĐVN) cho biết, theo khảo sát năm 2018 trong 7 ngành thì ngành may là ngành có tiền lương cơ bản thấp nhất trong các ngành. Tiền lương cơ bản trung bình của người lao động (làm đủ giờ) là 4.670.000 đồng, tăng 4,2% so với năm 2017. Tình trạng đình công trong ngành may cũng lớn nhất, chiếm đến 39% . Hầu hết liên quan điều kiện làm việc, tiền lương.

Viện dẫn nghiên cứu của Oxfam về “Tiền lương không đủ sống và hệ lụy” trong ngành công nghiệp may, ông Lê Đình Quảng cho biết, có đến 99% thu nhập của người lao động thấp hơn mức lương đủ sống theo tiêu chuẩn của Sàn lương châu Á và 74% có mức lương thấp hơn mức lương đủ sống của Liên minh Lương đủ sống Toàn cầu. Đặc biệt, nếu chỉ tính công việc hoàn thành trong giờ làm việc tiêu chuẩn, không tính các khoản phụ cấp, lương thực tế của nhiều công nhân may được khảo sát không đủ sống ở mức cơ bản nhất.

Tiền lương không đủ sống cũng dẫn đến các hệ lụy như 31% không tiết kiệm được gì từ tiền lương, 37% luôn ở trong tình trạng vay vợ từ bạn bè, người thân để bù lấp thiếu hụt chi tiêu,  96% không bao giờ hoặc hiếm khi đi ăn hàng. Đặc biệt, có 23% công nhân đang sống trong các điều kiện nhà ở tạm bợ và 44% cho biết đang sử dụng nước giếng và nước mưa.

Còn theo nghiên cứu của Trung tâm Phát triển và Hội nhập (CDI), lương cơ bản của công nhân may đạt khoảng 5,1 triệu đồng, chiếm tới 64% tổng thu nhập, đây là khoản chắc chắn mà người lao động được nhận hàng tháng. Các khoản phụ cấp, lương tăng ca, thưởng khác chiếm đến 36% tổng thu nhập. Đây là khoản có thể bị trừ hoặc không nhận được vào những giai đoạn ít việc. Qua đó cho thấy thu nhập của người công nhân rất bấp bênh.  Hơn nữa, nếu tính mức chênh lệch giữa thu – chi trong tháng, có tới 80% lao động ngành may có thu nhập thực tế dưới 5 triệu/tháng; trong đó có hơn 10% có mức chi lớn hơn mức thu.

 

Ông Lê Đình Quảng - Phó trưởng ban Quan hệ lao động (Tổng LĐLĐVN) chia sẻ về thực trạng trả lương của ngành may.


Bà Kim Thị Thu Hà - giám đốc điều hành CDI cũng cho biết: "Chúng tôi thực sự đau lòng với những chia sẻ của người lao động, đặc biệt lao động ngành may, về cuộc sống khó khăn, bấp bênh của họ. Những nhu cầu cơ bản của người lao động như ăn uống có dinh dưỡng, đảm bảo sức khỏe, được ở gần gia đình, có tiền mua thuốc khi ốm đau... cũng là những thứ xa vời. Họ chỉ có 2 chiến lược là giảm chi tiêu tới mức tối đa và làm tăng ca đến kiệt sức. Lương thấp dẫn tới sự phụ thuộc vào làm thêm giờ và thưởng, phụ cấp, mà những cơ chế có thể dẫn tới các hệ lụy khác như giảm năng suất, tăng tỉ lệ tai nạn lao động, phân biệt đối xử, bạo lực, quấy rối và cả những hệ lụy về mối quan hệ gia đình, giáo dục con cái, chăm sóc sức khỏe lâu dài... Do vậy, nhu cầu sống tối thiểu của người lao động là một yếu tố quan trọng, tiên quyết trong việc các bên xây dựng mức lương tối thiểu hàng năm".

Đừng coi lao động giá rẻ là lợi thế

Theo khảo sát về Chỉ số nhân lực toàn cầu (TWI) của ManpowerGroup Solutions có trụ sở tại Hoa Kỳ, Việt Nam hiện nay chỉ có 10,4% lao động có kỹ năng chuyên môn cao. Báo cáo này cũng nhận định “Việt Nam thiếu lao động tay nghề cao và chưa khai thác tối đa nguồn lực mặc dù nguồn lao động đầy tiềm năng này có nhiều cơ hội việc làm trong nước lẫn khu vực". Đây là cũng một trong những nguyên nhân khiến việc tăng lương đạt mức lương đủ sống gặp trở ngại.

 

Bà Kim Thị Thu Hà  -Trung tâm Phát triển và Hội nhập (CDI).


Lý giải về lương ngành dệt may còn thấp, công Lê Đình Quảng cho biết, hiện nay ngành dệt may của Việt Nam vẫn chỉ tập trung chủ yếu vào khâu gia công sản phẩm. Trong quá trình đàm phán, phần đa các nhãn hàng và doanh nghiệp không tăng phần tiền nhân công. Chi phí nhân công trong giá thành sản phẩm là rất ít. Do đó, các công ty may cũng không có nhiều điều kiện để chi phí cho người lao động.

Theo ông Lê Đình Quảng, các doanh nghiệp cần có giải pháp nâng cao năng suất lao động để tiết giảm các chi phí khác, nâng cao khả năng đàm phán tiền lương khi ký kết, thỏa thuận với các nhãn hàng, quan tâm hơn đến người lao động. “Đã đến lúc chúng ta đừng lấy nhân công giá rẻ để thu hút đầu tư cũng như đàm phán hợp đồng. Lương tối thiểu vùng chỉ là sàn chung, nhưng cũng rất quan trọng để nâng lương cho người lao động. Chúng tôi đề nghị thực hiện nội dung theo Nghị quyết 27 của Chính phủ, đến năm 2020, mức lương tối thiểu phải đạt được mức sống tối thiểu”, ông Quảng nhấn mạnh.

Còn ông Alexander Kohnstamm, Giám đốc Fair Wear Foundation (FWF) cho rằng, trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam sẽ kém hấp dẫn nếu chỉ dựa vào lợi thế cạnh tranh về giá nhân công. Điều này chỉ khiến Việt Nam mất cơ hội trong việc tận dụng cơ cấu dân số vàng để nâng cao nguồn nhân lực trong xu hướng kinh tế số và công nghệ đang phát triển. Về nguyên nhân người lao động ngành may đang phải chịu mức lương thấp, đại diện FWF cho rằng, do các yếu tố như năng suất, thương lượng tập thể về lương trong ngành may chưa phát triển. Mặt khác, đây cũng là ngành có tính cạnh tranh toàn cầu, trách nhiệm bị phân mảnh do một nhãn hàng đặt hàng ở nhiều nhà máy hoặc một nhà máy sản xuất cho nhiều nhãn hàng nên khiến giá sản phẩm thấp.

Đánh giá về thực trạng này, Kim Thị Thu Hà cho rằng, lương thấp là một thực tế không phải mới được đưa vào thảo luận. Đặt Việt Nam trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ thấy rằng đây không phải vấn đề Việt Nam có thể giải quyết mà đòi hỏi cả trách nhiệm của các nhãn hàng. “Một mặt, nhãn hàng tăng các yêu cầu về tuân thủ tiêu chuẩn lao động, nhưng mặt khác lại không đầu tư về nguồn lực để cải tiến năng suất cũng như chi trả thêm mức lương đủ sống cho người lao động. Như vậy doanh nghiệp Việt Nam sẽ đứng giữa sức ép một bên là yêu cầu của người lao động và một bên là yêu cầu của khách hàng. Chúng tôi cho rằng vai trò của các nhãn hàng đặc biệt quan trọng trong vấn đề này", bà Hà nói.

Theo bà Kim Thị Thu Hà, Việt Nam đang hướng tới việc Nhà nước không can thiệp vào thang bảng lương của doanh nghiệp để đảm bảo tính chủ động của doanh nghiệp và quyền doanh nghiệp khi kinh doanh. Tuy nhiên để có bảng lương đáp ứng được sự kỳ vọng của người lao động thì vai trò của công đoàn trong quá trình thương lượng là rất quan trọng. Chừng nào vai trò của công đoàn chưa được thể hiện rõ nét thì thang bảng lương vẫn phụ thuộc phần lớn vào quyết định của người chủ doanh nghiệp.

Đứng trước vấn đề này, bà Annabel Meus, Quản lý chương trình Việt Nam của FWF cho biết: "FWF đang có nhiều nỗ lực thúc đẩy các nhãn hàng có trách nhiệm trong việc đảm bảo mức lương đủ sống cho người lao động tại các nhà máy thông qua các hoạt động đánh giá việc tuân thủ của cả nhãn hàng và nhà máy về lương đủ sống, xây dựng các công cụ tính toán chi phí lao động trong thực hành mua hàng và đàm phán về giá...  Đây là vấn đề của toàn chuỗi cung ứng, của chính phủ các nước chứ không phải chỉ là vấn đề của nhà máy sản xuất".

NGUYỄN SÍU - MẠNH DŨNG

CÙNG CHUYÊN MỤC
Xem theo ngày
Tin nên đọc
Báo dân sinh
Báo dân sinh
Báo dân sinh