THỨ SÁU, NGÀY 22 THÁNG 11 NĂM 2024 06:38

Huyền thoại về nhạc cụ Đing năm ở Tây Nguyên

 

Nghệ nhân A Ma Kim – Buôn Ko Sia, TP. Buôn Ma Thuột, Đăk Lăk độc tấu Đing năm.

Đing năm là nhạc cụ khá phổ biến, hầu hết các buôn làng Êđê đều có người biết thổi nhưng người biết hát ei rei không nhiều, vì hát ei rei không khó về giai điệu nhưng đòi hỏi người hát phải thuộc nhiều klei duê (lời nói vần) và khả năng ứng đổi nhanh.

Sự ra đời của Đing năm được truyền tụng ở các nhóm tộc người thuộc dân tộc Ê đê (Kpă, Adham, M’dhur, Krung…) kể lại như sau: Có hai vợ chồng người Êđê đã sống với nhau qua bảy mùa rẩy mà vẫn chưa có mụn con nào. Họ ước ao có một người con để trông cậy lúc về già. Một lần đi rẩy, người vợ khát nước quá vội đi tìm nơi có nước. Vượt qua một quả đồi, ba con suối cạn, chợt bắt gặp một vũng nước trong veo trong hốc đá, chị liền uống một hơi cạn sạch. Uống xong chị cảm thấy người khoan khoái, tỉnh táo lạ thường.

Từ ngày đó, người vợ có thai. Đến mùa rẫy sau chị sinh ra được sáu người con gồm ba trai, ba gái rất xinh đẹp, chúng giống nhau như hoa plang nở cùng một lứa. Càng lớn chúng càng giống nhau như đúc khiến cả cha mẹ cũng nhầm lẫn. Người cha liền vào rừng chặt sáu ống nứa dài, ngắn khác nhau rồi nói: Ống dài là chị, là anh, ống ngắn là em, là út, rồi trao cho các con. Các ống thứ nhất, thứ hai, thứ năm trao cho con gái. Các ống thứ ba, thứ tư và thứ sáu trao cho con trai. Người con trai út rất thông minh và khéo tay. Chàng lấy sáu ống nứa đẽo gọt cho đẹp, gắn lưỡi gà làm từ cật tre và các ống. Chàng gắn sáu ống nứa đó vào sáu quả bầu khô làm kèn để thổi tạo nên âm điệu thánh thót rộn ràng. Nghe âm thanh cao thấp ấy mà cũng phân biệt đâu là anh, là chị, đâu là em, là út.

Chẳng may cha mẹ đột ngột qua đời. Sáu anh chị em mang các ống kèn ra thổi để tỏ lòng tiếc thương cha mẹ. Việc mỗi người thỏi một ống quá bất tiện bởi lấy ai nấu cơm, nấu nước, tiếp đãi khách khứa, thế là chàng trai út lại nghĩ ra cách lấy một quả bầu to rồi gắn cả sáu ống kèn vào. Với ý thức mẫu hệ, chàng đặt các ống của các chị ở trên, của các anh và mình ở dưới. Sau khi dùi lỗ bấm, chàng trai thổi lên khúc nhạc lúc réo rắt, lúc buồn thương. Nhờ thế đám tang của cha mẹ được chu toàn. Vừa có người nấu cơm, khiêng rượu tiếp khách và đặc biệt là có điệu nhạc trầm buồn tiễn đưa cha mẹ về với thế giới ông bà. Từ đó chiếc kèn được mọi người sử dụng và lan truyền khắp các buôn làng Êđê. Họ gọi là đing năm.

 


Theo tiếng Êđê, đing là ống, năm là số 6 trong hệ đếm của người Êđê. Đing năm là nhạc cụ gồm sáu ống, hiểu theo nghĩa đen, đã trở thành tên riêng. Đing năm thuộc họ hơi – chi thổi – lam (lưỡi gà). Cũng do sự tích như vậy mà theo phong tục truyền thống của người Êđê, Đing năm chỉ được thổi trong nhà có đám tang. Cũng có thể thổi trên rẫy nhưng tuyệt đối không được thổi trong nhà, trong buôn khi không có đám tang.

Là người dân tộc Êđê chính hiệu, đồng thời cũng là người làm trong ngành văn hóa của Đăk Lăk, ông Y Kô Niê cho biết: Ngày nay các kiêng cữ đó không còn quá chặt chẽ, có thể sử dụng ở nhiều nơi, đặc biệt là trong các Lễ Hội, các dịp sinh nhật văn hóa cộng đồng. Hai thành phần cấu tạo chính của kèn Đing năm là ống kèn và quả bầu chứa hơi thổi. Ống kèn là các ống nứa nhỏ, có đường kính từ 1,5 – 2,2 cm tùy theo kèn lớn hay nhỏ, một đầu có mắt nứa. Ở đầu có mắt được dùi một lỗ nhỏ. Lỗ dùi này quyết định âm thanh của cột hơi cả về cao độ lẫn chất lượng âm thanh. Cách đầu ống khoảng bề ngang bốn ngón tay (ở Đing năm trầm) hoặc ba ngón tay (ở Đing năm cao) xẻ một rãnh nhỏ để đặt lam (lưỡi gà rung hai chiều). Âm thanh của lưỡi gà tương ứng với âm thanh cột hơi. Lưỡi gà thường làm bằng cật tre, riêng nhóm Êđê M’dhur vùng M’Đrăk lại làm lưỡi gà từ cặt của cành cây cọ rừng. 

Cũng theo ông Y Kô Niê thì bầu kèn làm bằng trái bầu khô bỏ ruột, Trái bầu này không có vòng thắt mà cuống bầu thon nhỏ và cong về một phía cho dễ khi cầm kèn thổi. Ống cái (1,2,5) gắn phía trên, ống đực (3,4,6) gắn phía dưới sao cho đầu ống xếp liền nhau, cuối ống vếch ra rộng hơn để có thể cầm tay vào hàng ống trên một cách dễ dàng. Trên thân các ống kèn, ở vị trí thuận lợi của các ngón tay dùi các lỗ bấm. Các lỗ bấm này sử dụng khác với lỗ bấm của sáo, tức là ống chỉ kêu khi lỗ được bấm kín, để hở ra ống sẽ không kêu.

 

 

Thổi Đing năm theo cách vừa thổi vừa hít vào. Người thổi phải căn cứ vào câu nhạc để kết hợp một cách nhịp nhàng giữa thổi ra – hít vào, tránh tình trạng đoạn nhạc bị đứt quãng. Bấm lỗ bằng hai tay, tay trái đỡ các ống kèn phía trên, dùng ngón cái, ngón trỏ và các ngón giữa bấm các lỗ 1,2 và 5. Tay phải đỡ các ống kèn phía dưới cũng dùng các ngón như tay trái bấm vào các lỗ 3,4 và 6. Hai tay bấm ngược nhịp nhau tạo sự đối đáp giữa các ống trên (cái) và ống dưới (đực). Đing năm tạo ra hòa âm nền, hầu như không diễn tấu giai điệu. Chỉ có ở đầu hoặc cuối bài nhạc người thổi mới sử dụng một nét giai điệu đổ từ cao xuống thấp để bắt đầu hoặc kết điệu nhạc.

Bài bản đặc trưng của Đing năm là điệu nhạc ei rei, một lối hỏi đáp mang tính chất giao duyên hoặc tự sự. Điệu nhạc này có một quy chuẩn chung tuy mỗi vùng lại có nét khác biệt. Riêng vùng Êđê Bih ở Buôn Trấp, huyện Krông Ana lại có một làn điệu rất riêng mang tên Hơh ! Hơh ! hoặc Hơk ! Hơk. Ngoài điệu ei rei, Đing năm còn thổi các điệu nhạc Nao h’ma (Lên rẩy), Cư H’yuh (Núi bà H’yuh) hoặc thổi chơi trên rẫy một cách ngẫu hứng, sáng tạo của người thổi nhưng không có tên bài.

Nhạc cụ dân gian Tây Nguyên gắn bó với cuộc sống lao động và sinh hoạt văn hóa tinh thần cộng đồng. Đó có thể là công cụ đuổi chim, thú giữ rẫy hay nhạc cụ giải trí sau những ngày lao động vất vả hoặc những nhạc cụ gắn với nghi lễ, tín ngưỡng và Đing năm là một một loại nhạc cụ mang tính tự sự, trữ tình như thế. Tuy nhiên, hiện tại trước nguy cơ truyền thống cha ông bị mai một, có nguy cơ thất truyền. Điều đáng quan tâm là hiện tại người già mới thổi, làm được kèn Đing năm.

 

Tiến sỹ Buôn Krông Tuyết Nhung - Trưởng bộ môn Ngôn ngữ Trường ĐH Tây Nguyên cho biết: Không ở đâu như ở Tây Nguyên nói chung và Đăk Lăk nói riêng lại lưu giữ được các nhạc cụ dân gian phong phú, đa dạng và độc đáo nhiều đến vậy. Các nhạc cụ dân gian là một văn hóa vật thể nhưng hơn thế nữa, nó ẩn chứa những giá trị văn hóa phi vật thể rất cao.

Thông qua các hoạt động diễn tấu nhạc cụ trong các nghi lễ, lễ hội và sinh hoạt cộng đồng, ta có thể hiểu được những phong tục, tập quán, những quan niệm tín ngưỡng dân gian, tâm tư tình cảm của bà con các dân tộc Tây Nguyên.

Ngay cả hệ thống thanh âm, điệu thức, các bài bản, nguyên lý chế tác nhạc cụ và phương pháp diễn tấu rất độc đáo, đôi khi rất lạ cũng tạo nên giá trị văn hóa phi vật thể riêng biệt, không phải ở đâu cũng có.

BÁ THĂNG

CÙNG CHUYÊN MỤC
Xem theo ngày
Mất ngủ và thuốc Đông y: Vì sao niềm tin bị lung lay?

Mất ngủ và thuốc Đông y: Vì sao niềm tin bị lung lay?

Trong nhiều thế kỷ, Đông y đã là một phần quan trọng trong y học và văn hóa của nhiều nước châu Á, đặc biệt là Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại ngày nay, niềm tin...
5 tháng trước
Tin nên đọc
Báo dân sinh
Báo dân sinh
Báo dân sinh