Cần xây dựng chính sách để thích ứng với quá trình già hóa dân số
- Dược liệu
- 13:20 - 22/12/2018
Quang cảnh hội thảo.
Hội thảo chia sẻ “Báo cáo xây dựng chiến lược quốc gia toàn diện thích ứng với GHDS Việt Nam 2020-2030, tầm nhìn đến 2035” do Ủy ban Quốc gia về người cao tuổi (NCT) Việt Nam phối hợp với Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) tổ chức ngày 21/12/2018 tại Hà Nội.
Cần có hướng tiếp cận toàn diện hơn để thích ứng với GHDS
Ông Lê Bạch Dương trợ lý Trưởng đại diện Quỹ Dân số Liên hợp quốc UNFPA tại Việt Nam cho biết, già hóa là một tất yếu của sự phát triển. Chúng ta cần chuyển hướng trọng tâm từ việc đơn thuần giúp tiếp cận với tuổi già sang giúp tiếp cận với một tuổi già vui vẻ và hạnh phúc. Đồng thời, già hóa không chỉ là giải quyết các vấn đề của NCT. Chẳng hạn, phụ nữ thường phải chăm sóc NCT trong gia đình và với số NCT ngày càng tăng, nhu cầu chăm sóc cũng tăng cao thì cũng gây khó khăn nhất định cho người chăm sóc trong gia đình. Do đó, Việt Nam cần có hướng tiếp cận toàn diện hơn để thích ứng và đáp ứng nhu cầu của toàn bộ dân số, chuẩn bị cho một xã hội già trong tương lai.
Ông Lê Bạch Dương: Chúng ta cần chuyển hướng trọng tâm từ việc đơn thuần giúp tiếp cận với tuổi già sang giúp tiếp cận với một tuổi già vui vẻ và hạnh phúc.
TS. Nguyễn Ngọc Quỳnh (Quỹ Dân số Liên hợp quốc UNFPA) phân tích, ai cũng sẽ già là điều không thể tránh, chính vì vậy chuẩn bị cho tuổi già ngay từ khi còn trẻ là hữu ích để có cuộc sống tốt hơn khi về già. “Người trẻ hãy nhìn những NCT và những khó khăn họ phải đối mặt để hình dung ra cuộc sống khi qua 60 tuổi và tiếp tục già hơn trong nhiều năm. Cần giới thiệu các biện pháp để nhóm trẻ tuổi có thể được cung cấp thông tin có liên quan để giúp họ có cuộc sống ấm no, lành mạnh, tự do hơn là sợ bị phân biệt đối xử”, TS. Nguyễn Ngọc Quỳnh nhấn mạnh.
Theo TS. Nguyễn Ngọc Quỳnh, chuẩn bị cho tuổi già ngay từ khi còn trẻ là hữu ích để có cuộc sống tốt hơn khi về già.
Chia sẻ về vấn đề này, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội cho biết, khi dân số già sẽ phát sinh các vấn đề liên quan đến tình hình tài chính (đa số NCT không có tích lũy cho tuổi già, tỷ lệ NCT nhận lương hưu và bảo trợ xã hội còn thấp, gần 70% NCT không nhận được bất kỳ khoản trợ cấp nào, tỷ lệ NCT nghèo tăng theo độ tuổi ngày càng cao); các vấn đề liên quan đến sức khỏe và khuyết tật; việc chăm sóc NCT không chỉ bao gồm các dịch vụ y tế mà còn là các dịch vụ xã hội như dịch vụ hỗ trợ hoạt động sống cơ bản hàng ngày, các hoạt động cần thiết hàng ngày cũng như các dịch vụ nhằm giúp NCT tham gia vào các hoạt động xã hội; tỷ lệ NCT cô đơn có xu hướng tăng lên trong giai đoạn gần đây do những biến đổi về cấu trúc gia đình, vấn đề di cư, li dị cao và ly thân muốn sống độc lập… Bên cạnh đó, đôi khi các quyền của NCT bị xâm hại, mức nhẹ là lạm dụng, mạnh hơn nữa là bạo lực, tội phạm với NCT.
TS. Nguyễn Văn Tiên cho biết, khi dân số già sẽ phát sinh các vấn đề liên quan đến tình hình tài chính.
Đảm bảo quyền và tăng sự tham gia của NCT
Định hướng sửa đổi Luật NCT, hệ thống trợ giúp xã hội đã được ông Đoàn Hữu Minh, trưởng phòng Công tác xã hội (Cục Bảo trợ xã hội, Bộ LĐ-TB&XH) thông tin tại Hội thảo. Theo đó, sẽ tổ chức tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Luật NCT và xây dựng hồ sơ dự thảo Luật NCT sửa đổi, bổ sung. Dự kiến năm 2020 sẽ hoàn thiện dự thảo Luật để trình Chính phủ, Quốc hội.
Ông Đoàn Hữu Minh cho biết, nội dung sửa đổi Luật sẽ hoàn thiện nhóm chính sách tạo điều kiện để NCT còn khả năng lao động được tham gia làm việc.
Ông Minh cho biết, nội dung sửa đổi Luật sẽ hoàn thiện nhóm chính sách tạo điều kiện để NCT còn khả năng lao động được tham gia làm việc, phát huy vai trò NCT theo thông điệp của Liên hợp quốc “Nghỉ hưu nhưng không nghỉ làm việc”; tiếp tục hoàn thiện nhóm chính sách khuyến khích xã hội hóa chăm sóc và phát huy vai trò của NCT; Bổ sung nhóm chính sách phát triển công tác xã hội đối với NCT; mở rộng đối tượng thuộc diện thụ hưởng chính sách trợ giúp xã hội theo hướng giảm độ tuổi hưởng trợ cấp xã hội đối với NCT xuống 75 tuổi, ưu tiên NCT ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo và người có hoàn cảnh khó khăn; cải cách hành chính gắn với ứng dụng CNTT trong giải quyết chính sách an sinh xã hội đối với NCT.
Bà Nguyễn Thị Ngọc Lan thông tin, đến năm 2015, 100% NCT có thẻ bảo hiểm y tế.
Tại hội thảo, thông tin về đề án chăm sóc sức khỏe NCT giai đoạn 2017-2025, bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số (Bộ Y tế) cho hay, đến năm 2025, 100% NCT hoặc người thân trực tiếp chăm sóc NCT biết thông tin về GHDS, quyền được chăm sóc sức khỏe của NCT và các kiến thức chăm sóc sức khỏe NCT; 80% NCT có khả năng tự chăm sóc, được cung cấp kiến thức, kỹ năng tự chăm sóc sức khỏe; 90% NCT bị bệnh được tiếp cận dịch vụ; 100% NCT có thẻ bảo hiểm y tế; 100% bệnh viện TƯ, tỉnh (trừ bệnh viện chuyên khoa nhi) có tổ chức lão khoa hoặc dành một số giường để điều trị người bệnh là NCT; 100% NCT không có khả năng tự chăm sóc, được chăm sóc sức khỏe bởi gia đình, cộng đồng; tăng ít nhất hai lần số NCT cô đơn không nơi nương tựa, không còn khả năng tự chăm sóc, không có người trợ giúp tại nhà và có điều kiện chi trả được chăm sóc trong các cơ sở chăm sóc sức khỏe tập trung so với năm 2016.
Ông Lê Bạch Dương cho rằng, việc xây dựng chính sách đối với GHDS cần áp dụng hướng tiếp cận trên cơ sở đảm bảo quyền và bình đẳng giới cho toàn bộ dân số. “Việc xây dựng một chính sách quốc gia toàn diện thích ứng với GHDS sẽ giúp Việt Nam có một khung chính sách mạnh mẽ và hiệu quả cho phát triển bền vững trong tương lai. Chính sách này cần nhìn nhận NCT là một nguồn lực cho phát triển, do đó chính sách cần hướng tới phát huy nguồn lực của NCT chứ không chỉ coi NCT như những người thụ thưởng các dịch vụ xã hội tự động”, ông Dương nói.