Xây dựng Luật Việc làm (sửa đổi): Hướng tới đảm bảo việc làm bền vững
- Bài thuốc hay
- 12:28 - 30/09/2022
Bộ LĐ-TB &XH vừa có tờ trình gửi Chính phủ, đề nghị xây dựng Luật Việc làm (sửa đổi).
Luật Việc làm số 38/2013/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 16/11/2013, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2015. Ngay khi có hiệu lực, Luật Việc làm đã cho thấy tính ưu việt khi lần đầu tiên Việt Nam có một văn bản luật quy định đầy đủ, điều chỉnh toàn diện các quan hệ về việc làm và thị trường lao động.
Theo đó, Luật Việc làm đã mở rộng độ bao phủ, điều chỉnh các chính sách lao động, việc làm đến toàn bộ lực lượng lao động (đối tượng lao động có giao kết hợp đồng lao động và không có giao kết hợp đồng lao động). Luật cũng là cơ sở quan trọng để xây dựng các chính sách hỗ trợ người lao động, đặc biệt có nhóm lao động yếu thế, lao động nghèo, lao động nông thôn, người thất nghiệp và tăng cường cơ hội việc làm cho lao động khu vực phi chính thức.
Luật Việc làm với nhiều ưu tiên, hỗ trợ cho hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm phủ khắp hầu hết các địa phương trên cả nước, đã giúp lao động tìm việc làm, tiếp cận thông tin việc làm, nghề nghiệp... một cách dễ dàng, thuận tiện. Đồng thời, các chính sách hỗ trợ học nghề, giải quyết chính sách bảo hiểm thất nghiệp... thông qua các trung tâm này cũng giúp cho hàng triệu người lao động trên cả nước được thụ hưởng chính sách.
Bên cạnh đó, việc kết nối cung - cầu lao động ngày càng hoàn thiện thông qua các phiên giao dịch việc làm cả trực tuyến và trực tiếp. Mô hình này không chỉ hỗ trợ lao động tìm việc, quay lại thị trường lao động mà còn giúp hàng chục nghìn doanh nghiệp tuyển dụng được lao động phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh.
Tuy nhiên, sau 7 năm đi vào đời sống, Luật Việc làm bộc lộ một số khó khăn, hạn chế đòi hỏi sửa đổi bổ sung để hoàn thiện quan hệ về việc làm và thị trường lao động.
Theo Bộ LĐ-TB&XH, có 4 lý do cần thiết phải xây dựng Luật Việc làm (sửa đổi) gồm:
Thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc làm
Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định "Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc" , "Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động" , "Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài." .
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII tiếp tục nhấn mạnh quan điểm, chủ trương xuyên suốt của Đảng về mục tiêu giải quyết việc làm bền vững, chất lượng, xác định phát triển nguồn nhân lực là một trong ba khâu đột phá chiến lược, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ phát triển thị trường lao động đồng bộ, hiện đại, linh hoạt, thống nhất, hội nhập và hiệu quả (một trong bốn thị trường quan trọng góp phần hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa).
Bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật
Trong năm qua, Quốc hội đã ban hành, sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản luật làm thay đổi hoặc phát sinh những vấn đề liên quan tới việc làm, thị trường lao động, phát triển nguồn nhân lực, trực tiếp là phát triển kỹ năng nghề.
Hiện nay, Chính phủ đang xây dựng dự án Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) dự kiến trình Quốc hội năm 2023-2024, nhiều nội dung liên quan về chính sách bảo hiểm thất nghiệp trong Luật Việc làm hiện nay đang được trích dẫn theo Luật Bảo hiểm xã hội 2014.
Mặt khác, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp sẽ bãi bỏ "mức lương cơ sở". Tuy nhiên, trong Luật Việc làm có một số nội dung liên quan gắn với "mức lương cơ sở" như: tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm thất nghiệp của người lao động hưởng lương theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định; mức hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Khắc phục những tồn tại, hạn chế, bất cập trong thực tiễn thi hành Luật Việc làm
Trong quá trình triển khai thực hiện Luật Việc làm còn tồn tại những hạn chế, vướng mắc.
Một trong những nội dung quản lý nhà nước về việc làm là "quản lý lao động", tuy nhiên, nội dung này không được đề cập trong phạm vi điều chỉnh và quy định cụ thể tại các Chương trong Luật Việc làm. Tuy vậy, thực tế, hầu như chưa quản lý được toàn bộ lực lượng lao động, nhất là nhóm lao động không có giao kết hợp đồng lao động.
Việt Nam là một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển nhờ định hướng phát triển nền kinh tế số. Tuy vậy, chưa có các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển việc làm sáng tạo, việc làm trong bối cảnh kinh tế số; chưa có các quy định về chính sách hỗ trợ người lao động chuyển tiếp việc làm và tìm việc trong bối cảnh già hóa dân số. Một số khái niệm, quy định chưa rõ ràng hoặc được nội luật hóa; một số hành vi bị nghiêm cấm về dịch vụ việc làm, bảo hiểm thất nghiệp, kỹ năng nghề chưa được quy định trong Luật.
Những yêu cầu mới về nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý Nhà nước trong lĩnh vực việc làm
Bộ luật Lao động năm 2019 quy định Chương II. Việc làm, tuyển dụng và quản lý lao động (gồm 04 điều, từ Điều 9 đến Điều 12), tuy nhiên, nội dung về quản lý lao động chỉ quy định về trách nhiệm quản lý lao động của người sử dụng lao động (trong trường hợp có giao kết hợp đồng lao động), chưa quy định rõ đối với các trường hợp người lao động tự làm, không có giao kết hợp đồng lao động, chưa thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm của nhà nước trong quản lý lao động.
Hiện nay, lực lượng lao động cả nước có 51,6 triệu người , lao động làm công hưởng lương khoảng 25 triệu lao động, tuy nhiên chỉ có 16,8 triệu lao động tham gia BHXH (đã được BHXH Nam thu thập, tổng hợp, cập nhật thành cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm xã hội).
Như vậy, có khoảng 9 triệu lao động làm công hưởng lương không/chưa tham gia BHXH và trên 35 triệu lao động (2/3 lực lượng cả nước) chưa được nắm được thông tin cụ thể. Pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể, trực tiếp điều chỉnh đối với các nhóm lao động này, làm cơ sở hoạch định và triển khai các chính sách hỗ trợ, ví dụ như các gói an sinh xã hội trong giai đoạn Covid-19 vừa qua.
Trước tình hình dân số già tăng nhanh và tỷ lệ lao động phi chính thức còn cao nên cần bổ sung các quy định mang tính khung, định hướng làm cơ sở thúc đẩy chính thức hóa việc làm trong khu vực chính thức, nâng cao năng suất lao động và cải thiện điều kiện làm việc của khu vực kinh tế phi chính thức, góp phần từng bước chính thức hóa việc làm phi chính thức.