Vững tay chèo, vượt sóng cả
- Huyệt vị
- 10:48 - 04/02/2022
Một năm khó khăn và những điểm sáng đáng ghi nhận
Làn sóng thứ 4 của dịch Covid-19 khởi đầu ngày 27/4/2021 và kéo dài tới nay, với đa nguồn lây, đa chủng, đa ổ bệnh và đã xâm nhập sâu trong cộng đồng, khiến hàng triệu người mắc và hơn hai mươi nghìn người tử vong, gây di hại lâu dài về sức khỏe thể chất và tâm thần; làm gián đoạn, đứt gãy các chuỗi cung ứng và giảm sút cả tổng cầu, tổng cung xã hội, làm chậm nhịp độ tăng trưởng và gia tăng áp lực lạm phát, nợ xấu, nợ công, thất nghiệp…
Dịch bệnh trong 2 năm 2020, 2021 đã gây tổng thiệt hại cho nền kinh tế cả nước ít nhất khoảng 40 tỷ USD. Tăng trưởng GDP năm 2021 ước chỉ đạt 2,58%, khiến 2 năm liên tiếp Việt Nam không đạt mục tiêu kế hoạch đề ra. Cộng đồng doanh nghiệp bị tổn thất nặng nề, suy giảm cả về lượng và hiệu quả hoạt động...
Năm 2021, lần đầu tiên trong lịch sử hàng chục năm qua, có sự suy giảm so với năm trước cả về số lượng doanh nghiệp đăng ký mới 116,8 nghìn doanh nghiệp, (giảm 13,4%); tổng số vốn đăng ký 1.611,1 nghìn tỷ đồng, (giảm 27,9%); tổng số lao động đăng ký gần 854 nghìn (giảm 18,1%); vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 13,8 tỷ đồng (giảm 16,8%); số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động 43,1 nghìn, (giảm 2,2%) và tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế 4.136 nghìn tỷ đồng (giảm 25,8%). Đặc biệt, năm lần đầu tiên ghi nhận số doanh nghiệp rút khỏi thị trường 119,8 nghìn doanh nghiệp, (tăng 17,8%) cao hơn số lượng doanh nghiệp đăng ký mới. Thị trường trong nước bị thu hẹp khá mạnh, với tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 4.789,5 nghìn tỷ đồng, (giảm 3,8% so với năm trước), nếu loại trừ yếu tố giá giảm 6,2% (năm 2020 giảm 3%). Khách quốc tế giảm 95,9% so với năm trước và giảm ở tất cả các nguồn và kênh vận chuyển.
Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động cả nước năm 2021 ước tính là 3,22%, trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 4,42%; khu vực nông thôn là 2,48%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi năm 2021 là 3,1%, trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 3,33%; tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn là 2,96%. Dịch bệnh không chỉ ảnh hưởng trong ngắn hạn, mà còn trong trung và dài hạn đến các mục tiêu tăng trưởng 5 năm, 10 năm.
Tuy nhiên, năm 2021 vẫn có nhiều điểm sáng, năng suất lao động xã hội của Việt Nam vẫn tăng 4,71% (giá so sánh). Ngành nông nghiệp đã khẳng định và có nhiều cải thiện trong vai trò bệ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu và lần đầu tiên đạt kim ngạch xuất khẩu tới gần 50 tỷ USD. Bình quân 1 tháng có 13,3 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động, trong khi có gần 10 nghìn doanh nghiệp rút khỏi thị trường. Hơn nữa, kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thì có tới 75% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh trong quý IV/2021 ổn định và tốt hơn so với quý III/2021; hơn 81% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh quý I/2022 sẽ tốt lên so với quý IV/2021.
Đặc biệt, dịch bệnh Covid-19 đã và đang tạo áp lực và cả động lực thúc đẩy quá trình chuyển đổi số mạnh mẽ và bùng nổ kinh tế số ở Việt Nam cả về tốc độ và phạm vi, tạo cơ hội cho doanh nghiệp tìm những hướng đi mới và hoạt động hiệu quả hơn…
Thị trường tài chính ghi nhận sự khởi sắc khá ấn tượng, với tổng phương tiện thanh toán tăng 8,93% so với cuối năm 2020; huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 8,44%; tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 12,97%. Doanh thu phí toàn thị trường bảo hiểm năm 2021 tăng 15,6% so với năm trước. Đặc biệt, thị trường chứng khoán Việt Nam ghi nhận nhiều kỷ lục mới: Chỉ số VNIndex chạm mốc 1.500 điểm; làn sóng gia nhập của nhà đầu tư tăng cao (đến cuối tháng 11/2021, số lượng tài khoản của nhà đầu tư đạt 4,08 triệu tài khoản, tăng 47,3% so với cuối năm 2020).
Tổng FDI tính đến ngày 20/12/2021 (vốn cấp mới, vốn điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần) đạt 31,15 tỷ USD, tăng 9,2% so với năm 2020. Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài tăng 28,6%. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 19%; nhập khẩu tăng 26,5%; khu vực kinh tế trong nước đạt 88,71 tỷ USD, tăng 13,4%, chiếm 26,4% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 247,54 tỷ USD, tăng 21,1%, chiếm 73,6%. CPI bình quân năm 2021 tăng 1,84% so với bình quân năm 2020, mức tăng bình quân năm thấp nhất kể từ năm 2016. Lạm phát cơ bản bình quân năm 2021 tăng 0,81% so với bình quân năm 2020. Tổng thu NSNN bằng 113,4% và tổng chi bằng 109% dự toán năm… Tỷ lệ nghèo tiếp cận đa chiều ước khoảng 4,4%, giảm 0,4 điểm phần trăm so với năm 2020. Số xã đạt chuẩn nông thôn mới ước tính đến hết tháng 12/2021 đạt 68% (tăng 5,6% so với năm 2020).
Về tổng thể, theo Chính phủ, các điều kiện nền tảng vẫn vững mạnh, lượng dự trữ ngoại hối tăng cao, tiền tệ ổn định, lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát…
Những quyết sách linh hoạt
Trước diễn biến nhanh, phức tạp của dịch, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thường trực Ban Bí thư đã ban hành các kết luận, thông báo, điện, công điện; Tổng Bí thư đã ra lời kêu gọi; lãnh đạo chủ chốt thường xuyên thảo luận, thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo và đề ra những định hướng lớn, các phương châm, đường lối, chiến lược về phòng, chống dịch.
Các biện pháp quyết liệt, triệt để và quy mô nhất, kể cả chưa có tiền lệ, được các cơ quan chức năng các cấp liên tiếp đưa ra với tinh thần "chống dịch như chống giặc" và yêu cầu đặt sức khỏe, tính mạng của nhân dân lên trên hết. Quốc hội cho phép Chính phủ áp dụng một số cơ chế đặc biệt, đặc thù, đặc cách, kể cả cho phép Chính phủ ban hành Nghị quyết có một số nội dung khác với quy định của luật để kịp thời áp dụng các biện pháp phù hợp đáp ứng yêu cầu cấp bách phòng, chống dịch. NSNN được quản lý theo hướng tiết kiệm triệt để chi thường xuyên để bổ sung và chi tối đa cho công tác chống dịch. Các Tổ công tác, Ban Chỉ đạo và Trung tâm chỉ huy phòng, chống dịch các cấp đặc trách chống dịch của Quốc hội, của Chính phủ và các cơ quan, địa phương được thành lập và phối hợp chặt chẽ với nhau. Nhiều cuộc họp giao ban trực tiếp từ Thủ tướng Chính phủ đến cấp cơ sở để lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống dịch... kịp thời đưa dịch vụ y tế, an sinh xã hội đến gần dân nhất, sát dân nhất; tập trung huy động các nguồn lực hỗ trợ, chi viện kịp thời cho các địa phương có dịch và có nguy cơ cao bùng phát mạnh để nhanh chóng dập dịch.
Đặc biệt, theo tinh thần Nghị quyết 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ quy định tạm thời "Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19", cả nước đã chính thức chuyển hướng chiến lược chống dịch từ phòng ngự sang tấn công, chủ động và linh hoạt thích ứng với dịch bệnh, phục hồi và phát triển kinh tế; phân cấp rõ ràng và tạo sự thống nhất trong chỉ đạo, sự linh hoạt kịp thời trong triển khai chính sách chống dịch bệnh quốc gia.
Đồng thời, các biện pháp tài chính, tín dụng cũng được triển khai đồng bộ, với việc huy động tổng hợp các nguồn lực. Ước tính năm 2021, các giải pháp tài khóa hỗ trợ doanh nghiệp, người dân bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 có quy mô 185.984 tỷ đồng, tương đương 2,2% GDP. Ngoài ra, đã thực hiện các chính sách miễn, giảm cước phí viễn thông, học phí, tiền điện và chi hỗ trợ từ các quỹ bảo hiểm với tổng quy mô 83.480 tỷ đồng. Như vậy, tổng quy mô các chính sách chi hỗ trợ từ tài khóa và ngoài tài khóa là 269.464 tỷ đồng, tương đương 3,2% GDP. Triển khai quyết liệt các giải pháp tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế. Tính đến hết tháng 10/2021, NSNN đã cấp thực hiện phòng, chống dịch Covid-19 là 30.489,78 tỷ đồng; các tập đoàn, doanh nghiệp trong nước đã hỗ trợ khoảng 2.000 tỷ đồng; các tổ chức, chính phủ các nước đã tài trợ khoảng 20 triệu USD. Theo dự kiến của Chính phủ, cả năm 2021, các cấp, ngành thực hiện miễn, giảm, gia hạn thuế, tiền thuê đất, phí, lệ phí cho doanh nghiệp với tổng số tiền khoảng 118 nghìn tỷ đồng. Đến ngày 28/9/2021, cả nước đã thực hiện hỗ trợ cho 18,1 triệu đối tượng thụ hưởng với tổng kinh phí trên 14,9 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ cho vay 441,4 tỷ đồng để trả lương cho 127 nghìn lượt người lao động. Từ tháng 10/2021, hỗ trợ từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp khoảng 38.000 tỷ đồng để hỗ trợ cho trên 12,8 triệu người lao động và 386 nghìn người sử dụng lao động...
Nhờ sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự nỗ lực, cố gắng, phối hợp chặt chẽ của các cơ quan Trung ương và địa phương, nhất là các lực lượng tuyến đầu chống dịch, như y tế, quân đội, công an... với sự đoàn kết, đồng tình ủng hộ của các tầng lớp nhân dân, doanh nghiệp, tình hình phòng, chống dịch đã có chuyển biến tích cực. Đến nay, hầu hết các địa phương đã kiểm soát tốt dịch bệnh; duy trì hợp lý các hoạt động sản xuất kinh doanh ở nơi đủ điều kiện, hạn chế đứt gãy chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng và có nhiều chuyển biến tích cực trong ổn định đời sống nhân dân, phục hồi và tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội.
Kết quả trên càng có ý nghĩa to lớn hơn khi chúng ta phòng, chống dịch trong điều kiện hầu hết các vật tư, thiết bị y tế, đặc biệt là thuốc, vaccine trong nước không sản xuất được, phải nhập khẩu trong khi nguồn cung khan hiếm trên toàn cầu.
Đẩy mạnh phục hồi năm 2022
Năm 2022, sẽ còn nhiều khó khăn phía trước gắn trực tiếp với sự diễn biến phức tạp của dịch bệnh trên phạm vi toàn cầu và trên cả nước. Song, Việt Nam đang duy trì ở trạng thái tốt để phục hồi vững chắc trong vòng một đến hai năm tiếp theo nhờ vào các giải pháp hiệu quả cao của Chính phủ để kiềm chế dịch Covid-19 trong nước. Vị thế điểm đến hàng đầu trong Đông Nam Á về thu hút FDI, xuất khẩu tăng trưởng ổn định, nhu cầu nội địa mạnh mẽ và vị thế đối ngoại vững chắc; chính sách tài khóa, nợ công linh hoạt và hiệu quả. Đặc biệt, Việt Nam đang thúc đẩy các xu hướng tự động hóa và số hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ trong nhiều lĩnh vực. Năm 2022 sẽ là năm thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số ở mọi ngành trên phạm vi toàn quốc, toàn dân và toàn diện, là năm đầu thực hiện các chiến lược mới về hạ tầng số, dữ liệu, công nghiệp công nghệ số, doanh nghiệp công nghệ số, chuyển đổi số báo chí... Hướng đến mục tiêu năm 2025 cả nước có 100.000 doanh nghiệp công nghệ số, với ít nhất 10 doanh nghiệp công nghệ số đóng vai trò dẫn dắt, có năng lực cạnh tranh quốc tế, doanh thu trên 1 tỷ USD; có ít nhất 10 địa phương đạt doanh thu công nghiệp công nghệ thông tin trên 1 tỷ USD…
Theo dự thảo Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế được xây dựng theo tinh thần Nghị quyết số 16/2021/QH15 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021 - 2025), Chương trình phục hồi với "giải pháp đủ mạnh", "thời gian đủ dài", "quy mô đủ lớn" tập trung vào tăng cường năng lực y tế, an sinh xã hội, hỗ trợ doanh nghiệp/hợp tác xã/hộ gia đình, kích thích đầu tư công và cải cách hành chính, vừa đảm bảo nhanh chóng đưa hoạt động kinh tế của cả nước trở lại trạng thái bình thường, với mục tiêu tổng quát “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh Covid-19, bảo vệ tối đa sức khỏe, tính mạng của nhân dân”. Tận dụng tốt các cơ hội để thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội bền vững hơn, với các giải pháp tổng thể và hiệu quả hơn, phấn đấu đạt được mục tiêu kế hoạch năm 2022, với tăng trưởng GDP từ 6 - 6,5%, tốc độ tăng CPI bình quân khoảng 4%; bội chi NSNN khoảng 4% GDP...
Theo tinh thần Chương trình, Chính phủ dự kiến quy mô thực hiện trong năm 2022, 2023 tương ứng với từng nhóm nhiệm vụ, giải pháp, gồm: Mở cửa nền kinh tế gắn với phòng, chống dịch bệnh Covid-19, đầu tư nâng cao năng lực y tế (60 nghìn tỷ đồng); bảo đảm an sinh xã hội và hỗ trợ việc làm (53,15 nghìn tỷ đồng); hỗ trợ phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh (110 nghìn tỷ đồng); phát triển kết cấu hạ tầng, khơi thông nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển (113,85 nghìn tỷ đồng); cải cách thể chế, cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Ngoài ra, huy động từ các Quỹ tài chính ngoài NSNN khoảng 10 nghìn tỷ đồng.
Về chính sách tài khóa, Chính phủ dự kiến tổng quy mô tài khóa là 291 nghìn tỷ đồng, gồm: Quy mô tăng bội chi để hỗ trợ trực tiếp từ NSNN là 240 nghìn tỷ đồng. Trong số 240 nghìn tỷ đồng này, số tiền miễn, giảm thuế, tiền thuê đất, phí, lệ phí phải nộp cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh là 64 nghìn tỷ đồng (chưa tính đến tác động tích cực của Chương trình đến khả năng tăng thu NSNN). Chi trực tiếp từ NSNN là 176 nghìn tỷ đồng, chỉ sử dụng để chi đầu tư phát triển; bố trí từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách trung ương năm 2021 khoảng 6,6 nghìn tỷ đồng để hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động; gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất; tăng thêm 38,4 nghìn tỷ đồng hạn mức phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh cho Ngân hàng Chính sách Xã hội để thực hiện 6 chính sách.
Về chính sách tiền tệ, Chính phủ phấn đấu giảm lãi suất cho vay tối thiểu 0,5 - 1% trong 2 năm. Trường hợp rủi ro lạm phát tăng cao có sự điều chỉnh linh hoạt. Báo cáo của Chính phủ cũng ước tính sử dụng khoảng 46 nghìn tỷ đồng từ nguồn tài chính hợp pháp khác để nhập khẩu vccine, thuốc điều trị và thiết bị, vật tư y tế phục vụ phòng, chống dịch…
Trong bối cảnh dịch bệnh có thể kéo dài, các nhiệm vụ, giải pháp và các chính sách hỗ trợ phát triển cần chú ý tạo động lực kích thích cho cả tổng cung và tổng cầu. Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô và thúc đẩy cải cách thể chế kinh tế sâu rộng hơn, tạo thêm “sức bật” cho doanh nghiệp. Thúc đẩy phát triển liên kết vùng, khu kinh tế và phát triển đô thị, kinh tế đô thị, đẩy nhanh tiến độ lập, phê duyệt các quy hoạch. Gắn kết hài hoà giữa phát triển kinh tế với văn hóa, xã hội; phát huy giá trị văn hoá, con người Việt Nam. Chú trọng thực hiện chính sách người có công, bảo trợ xã hội, bảo đảm an sinh xã hội. Nâng cao năng lực hệ thống y tế, nâng cao tính tự chủ, khả năng chống chịu, thích ứng để phục hồi và phát triển kinh tế trong trạng thái bình thường mới.
Việc vận dụng các chính sách kinh tế vĩ mô cần linh hoạt theo các kịch bản để ứng phó với các diễn biến bất lợi của kinh tế thế giới và khu vực; đẩy mạnh đa dạng hóa xuất khẩu, đáp ứng và khai thác các cơ hội mới từ các FTA quan trọng (như CPTPP, EVFTA). Nghiên cứu, khuyến khích các mô hình kinh tế mới và mở rộng không gian kinh tế trong nước và tham gia sâu hơn vào cấu trúc đầu tư, trật tự thương mại và chuỗi cung ứng toàn cầu, nhất là chuyển đổi số, thu hút hợp tác về cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Đặc biệt, cần tập trung triển khai nghiêm túc và hiệu quả các nhiệm vụ theo tinh thần Nghị quyết số 105/NQ-CP ngày 9/9/2021 của Chính phủ về hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch Covid-19. Theo đó, vừa thực hiện quyết liệt các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh phục hồi, duy trì và phát triển sản xuất, kinh doanh; đảm bảo ổn định sản xuất, lưu thông hàng hóa thông suốt, hiệu quả, an toàn, khắc phục gián đoạn chuỗi cung ứng. Tập trung hỗ trợ cả về thể chế hành chính và về tín dụng, tài chính, cắt giảm chi phí, tháo gỡ khó khăn về tài chính, dòng tiền cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh.
Kết quả và triển vọng phục hồi kinh tế cả cấp vĩ mô và vi mô, trước mắt và lâu dài tùy thuộc quyết định vào sự chủ động chỉ đạo thống nhất, sự phối hợp đồng bộ, hài hòa các giải pháp hỗ trợ toàn diện, thích hợp, kịp thời, hiệu quả từ tất cả các cấp, ngành, đơn vị chức năng trong hệ thống chính trị; cũng như, từ sự nỗ lực, tuân thủ chung trong chiến lược quốc gia kiểm soát, thích ứng dài hạn với dịch bệnh và từ năng lực ứng chịu, tự lực tự cường vượt qua các khó khăn, thách thức của từng người dân và doanh nghiệp do ảnh hưởng của dịch bệnh.
Dịch bệnh Covid-19 đã, đang và sẽ tiếp tục đặt ra những thách thức y tế và kinh tế - xã hội chưa có tiền lệ, nên đòi hỏi chúng ta cũng phải có những tư duy, cách làm và nỗ lực chưa có tiền lệ, để vượt qua, phục hồi và tiếp tục phát triển…