Tỷ lệ thịt lợn bán lẻ bị nhiễm khuẩn giảm từ 52% xuống 24%
- Huyệt vị
- 05:22 - 29/03/2023
Ngày 28/3, tại Hà Nội đã tổng kết Dự án “Các phương pháp tiếp cận dựa vào thị trường nhằm cải thiện an toàn của thịt lợn tại Việt Nam” (SafePORK).
Dự án SafePORK (2017-2023) là một dự án được tài trợ bởi Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp quốc tế Australia (ACIAR). Viện nghiên cứu Chăn nuôi quốc tế (ILRI) hợp tác với Học viện Nông nghiệp Việt Nam (VNUA), Đại học Y tế Công cộng (HUPH), Viện Chăn nuôi (NIAS) và Đại học Sydney, Australia cùng triển khai dự án.
Dự án SafePORK hướng đến mục tiêu giảm gánh nặng bệnh tật do thực phẩm gây ra ở các thị trường không chính thức, mới nổi và thị trường ngách. Dự án đã phát triển và đánh giá các biện pháp can thiệp đơn giản để cải thiện an toàn thực phẩm đồng thời bảo vệ sinh kế cho các tác nhân trong chuỗi thịt lợn quy mô nông hộ nhỏ tại Việt Nam.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, TS. Anna Okello, Quản lý chương trình nghiên cứu hệ thống chăn nuôi của ACIAR, cho biết: “Trong thỏa thuận giữa ACIAR và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn giai đoạn 2017- 2027, an toàn thực phẩm được xác định là một trong 6 chủ đề ưu tiên. Các dự án như SafePORK có thể cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách và công chúng những bằng chứng khoa học hỗ trợ cho các lựa chọn chính sách khả thi giúp quản lý an toàn thực phẩm hiệu quả hơn tại Việt Nam".
Theo TS. Phạm Đức Phúc, thành viên của dự án đến từ Đại học Y tế Công cộng, thịt lợn là loại thịt được tiêu thụ nhiều nhất ở Việt Nam và mức độ nhiễm khuẩn Salmonella trong thịt lợn rất cao. Trung bình, hàng năm cứ 10 người thì có 1-2 người có nguy cơ mắc bệnh nhiễm khuẩn Salmonella từ thịt lợn.
Salmonella là một bệnh truyền qua thực phẩm phổ biến. Hầu hết các trường hợp thường nhẹ, nhưng bệnh có thể trở nên nghiêm trọng và ảnh hưởng đến bất kỳ ai. Những người có nguy cơ cao nhất là trẻ em dưới 5 tuổi, người già từ 65 tuổi trở lên, phụ nữ mang thai và những người có vấn đề về sức khỏe.
TS. Fred Unger, Trưởng đại diện khu vực của Viện nghiên cứu Chăn nuôi Quốc tế (ILRI) tại Đông và Đông Nam Á cho biết, sau khi can thiệp, tỷ lệ nhiễm khuẩn Salmonella trên thịt lợn bán lẻ tại Việt Nam đã giảm từ 52% trước đó xuống 24% hiện nay.
“Dự án SafePORK đã triển khai một số biện pháp can thiệp đơn giản và hỗ trợ xây dựng năng lực giúp giảm mầm bệnh Salmonella trong chuỗi. Nhóm cũng tiến hành khảo sát với các chủ thể tham gia chuỗi giá trị thịt lợn quy mô nhỏ”, TS. Fred Unger cho biết thêm.
Nhóm nghiên cứu cũng đã giới thiệu gói can thiệp nhằm cải thiện thực hành vệ sinh. Gói can thiệp bao gồm việc tách riêng thịt lợn sống, thịt lợn chín và nội tạng; đồng thời lau rửa thường xuyên các bề mặt, thiết bị và tay của người bán hàng. Một gói can thiệp cũng được giới thiệu tại các lò mổ, bao gồm việc sử dụng tấm thép không gỉ để ngăn thân thịt tiếp xúc với sàn, rửa tay và bề mặt thường xuyên, đồng thời phân tách tốt hơn các khu vực sạch và bẩn để giảm ô nhiễm thân thịt.
Theo TS. Fred Unger - Trưởng đại diện khu vực của ILRI tại Đông và Đông Nam Á: Dự án SafePORK đã triển khai một số biện pháp can thiệp đơn giản và hỗ trợ xây dựng năng lực giúp giảm mầm bệnh chính là Salmonella trong chuỗi. Sau khi can thiệp, tỷ lệ nhiễm khuẩn Salmonella trên thịt lợn bán lẻ đã giảm từ 52% xuống 24%.
“Dự án SafePork cho thấy các biện pháp can thiệp đơn giản và chi phí thấp có thể làm giảm mức độ ô nhiễm thịt lợn tại các chợ truyền thống, do đó có thể giải quyết vấn đề lớn về an toàn thực phẩm. Chúng tôi đang phối hợp với các chương trình khác như Sáng kiến Một sức khỏe của CGIAR để nhân rộng kết quả nghiên cứu tích cực này vì lợi ích của cộng đồng ở các địa phương khác tại Việt Nam”, ông Nguyễn Việt Hùng, đồng lãnh đạo Chương trình Sức khỏe con người động vật của ILRI và lãnh đạo sáng kiến Một sức khỏe của CGIAR chia sẻ thông tin.
TS. Shirley Tarawali - quyền Tổng giám đốc ILRI - nhấn mạnh: “Các nghiên cứu và biện pháp can thiệp của SafePORK đã đóng góp đáng kể vào việc cải thiện an toàn thịt lợn tại Việt Nam; đồng thời hỗ trợ nhiều sinh kế cho người dân. Những bài học có giá trị từ dự án này sẽ giúp hướng tới hệ thống thực phẩm an toàn hơn cho Việt Nam và hơn thế nữa”.