Trường Sa ngày mới
- Văn hóa - Giải trí
- 15:20 - 28/04/2017
Mũi tiến công giải phóng đảo Trường Sa của bộ đội Hải quân.
Giải phóng Trường Sa
Đêm 10/4/1975, từ bến cảng Sơn Trà Đà Nẵng, đoàn tàu không số được ngụy trang thành “đoàn tàu đánh cá” gồm 3 chiếc 673,674,675 nhổ neo ra khơi trong bạt ngàn giông tố. Những đợt sóng lừng vô tận, liên tiếp như muốn vùi dập những con tàu nhỏ bé xuống biển sâu, hất lên cao, rồi lại vùi xuống. Trong bụng những con tàu đó chứa gần 300 chiến sĩ Đội 1 Đoàn 126 đặc công Hải quân cùng các lực lượng Quân khu 5 và hàng chục tấn đạn dược hải trình thần tốc ra đảo. Để bảo đảm bí mật, cán bộ chiến sĩ trên các tàu lúc đó phải ẩn giấu trong khoang kín, vừa bị say sóng, vừa thiếu không khí, mọi người ai cũng mệt nhoài.
Thiếu tướng Mai Năng - một “rái biển” thao tài chiến lược chỉ huy giải phóng Trường Sa 42 năm trước, nay đã 86 tuổi, song ký ức về ngày chỉ huy “đoàn tàu há mồm” ra Trường Sa thì không thể nào quên. Tướng Năng lúc đó đeo lon Trung tá đi trên tàu 675 giữ chức chỉ huy biên đội tàu. Trước lúc lên đường, Phó Tư lệnh Hải quân Hoàng Hữu Thái giao nhiệm vụ cho biên đội tàu: “Chúng ta phải bằng bất cứ giá nào, tranh thủ thời cơ có lợi giải phóng quần đảo Trường Sa. Trận này ta không thể đánh theo cách của đặc công nước, phải đánh trinh sát vũ trang, có chỗ phải dùng hỏa lực. Khi giải phóng rồi phải tổ chức lực lượng phòng thủ đảo ngay và tiếp tục giải phóng các điểm đảo khác”.
Tàu 673, 774, 675 ra giải phóng Trường Sa năm 1975. Ảnh tư liệu
Sau hơn 3 ngày đêm hải trình khẩn cấp, rạng sáng 13/4/1975, biên đội tàu đã đến vùng biển Song Tử Tây. Trung tá Mai Năng mở tấm hải đồ Trường Sa, trỏ tay vào một điểm, dõng dạc: “Đây là đảo Song Tử Tây, chúng ta hiện đang ở tọa độ này...Tàu sẽ bí mật vào cách đảo 4 hải lý. Nếu điều kiện cho phép cứ vào sát nữa, vòng quanh đảo tìm vị trí đổ bộ”. Mệnh lệnh đanh thép từ người chỉ huy dày dạn trận mạc như tiếp thêm sức mạnh chiến đấu cho từng chiến sĩ. Hướng về phía Đội trưởng Đội 1 Nguyễn Ngọc Quế - người được giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy bộ đội giải phóng đảo Song Tử Tây, Trung tá Năng nói: “Đồng chí cứ theo phương án đó mà thực hiện”.Trong khi hai tàu 674 và 675 án ngữ phía Bắc, cách đảo Song Tử Tây hơn chục hải lý đề phòng đối phương từ phía Bắc xuống và nghi binh các tàu chiến của đối phương đang lởn vởn ở khu vực đảo Nam Yết, thì tàu 673 do Nguyễn Ngọc Quế chỉ huy bí mật trinh sát vòng ngoài quanh đảo, xác định rõ vị trí tiến công, những yếu tố bí mật bất ngờ, những khó khăn thuận lợi. 7 giờ sáng ngày 13/4/1975 Nguyễn Ngọc Quế báo cáo, xin thông qua phương án tác chiến, quyết định: Hướng đổ bộ lên đảo là hướng Tây Nam nơi có bãi cát phẳng và đá san hô.
Đảo Nam Yết khang trang giữa biển khơi. Ảnh: Trần Mạnh Tuấn
1 giờ sáng ngày 14/4/1975, biên đội tàu 673, 674, 675 đã bí mật tiếp cận đảo Song Tử Tây cách 3 hải lý. Nhìn từ phía biển, đảo Song Tử Tây là đảo san hô khá lớn “bập bềnh” trong sóng lớn. Trên đảo phát ra vài quầng sáng yếu ớt của mấy ngọn đèn bảo vệ trên các lô cốt. Xác định đây là thời cơ thuận lợi để hạ xuồng cho quân bí mật áp sát đảo, làm bàn đạp để tiến công. Mệnh lệnh “thả xuồng” được truyền đi từ đài chỉ huy. Tàu 673 nhanh chóng quay mũi về hướng Bắc để giữ bí mật, chọn chiều gió, hướng sóng thuận lợi để tàu đổ bộ. Tàu 674, 675 ở phía Tây và phía Bắc đảo tiếp ứng cho quân đổ bộ, sẵn sàng đánh chặn tàu địch từ phía ngoài. Cuộc chiến đấu bắt đầu. Giữa biển đêm đen, sóng gió ầm ầm nhưng vẫn nghe được tiếng ken két phát ra từ ròng rọc hạ xuồng đổ bộ. Khí thế chiến đấu của bộ đội hừng hực. Lợi dụng thủy triều xuống thấp, tàu 673 khẩn cấp cho các chiến sĩ bí mật tiếp cận đảo. “Mặc dù thủy triều xuống thấp thuận lợi cho bộ đội cơ động, song cũng mất hơn 3 giờ mới tiếp cận được đảo. Các chiến sĩ nhanh chóng lợi dụng địa hình, địa vật bí mật sẵn sàng chờ lệnh nổ súng”, thiếu tướng Năng cho biết.
Chào cờ ở đảo Nam Yết.
Đảo Song Tử Tây nửa đêm về sáng lặng lẽ hoang vu. Từ phía lô cốt địch, thỉnh thoảng lại lóe lên một chấm sáng nhỏ. Tất cả im lặng. Sau khi 38 cán bộ, chiến sĩ phân đội 1 bí mật bò sát mép đảo vào vị trí chiến đấu, đội trưởng Quế hạ lệnh “nổ súng”, một loạt đạn DKZ bắn thẳng vào lô cốt, ụ súng địch. Những tiếng hô “xung phong” vang khắp đảo. Hỏa lực từ tàu 673 tới tấp nã vào các mục tiêu. Bị tấn công bất ngờ, địch chống trả quyết liệt, đại liên từ các lô cốt bắn ra như mưa. B40, B41 của các chiến sĩ đặc công tập trung bịt họng các ổ đề kháng của địch và nhanh chóng đánh chiếm sở chỉ huy, làm chủ điện đài. “Các chiến sĩ trẻ rất dũng cảm, thương vong không đáng kể. Nhưng đây là chiến công đầu tiên, khẳng định sức mạnh và tinh thần chiến đấu làm chủ vùng biển của hải quân Việt Nam”, ông Năng kể lại.
Tiến bước dưới Quân kỳ
Thừa thắng, các chiến sĩ tiếp cận các vị trí thuận lợi , dồn địch vào cuối đường giao thông hào, những tiếng loa gọi hàng vang lên. Biết không thể cố thủ mãi trong hầm hào công sự, lính ngụy đã dương cờ trắng xin hàng. Phía đường hào cuối đảo, những khuôn mặt phờ phạc của kẻ thất trận, cầm cờ trắng, đưa tay lên đầu xin hàng vô điều kiện. Lá cờ của mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam được chiến sĩ Lê Xuân Phát kéo lên đỉnh cột cờ trước bia chủ quyền, tung bay trên đảo Song Tử Tây. Lúc đó là 5 giờ 15 phút ngày 14/4/1975.
Sau khi giải phóng đảo Song Tử Tây, đêm 23, rạng sáng 24/4, tàu 673 tiếp tục chở lực lượng đặc công giải phóng các đảo còn lại trên quần đảo Trường Sa như đảo Nam Yết, Sơn Ca, Sinh Tồn. 9 giờ sáng ngày 29/4, Hải quân Việt Nam đã làm chủ hoàn toàn đảo Trường Sa Lớn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Quân ủy Trung ương giao cho Hải quân.
Ngày mới ở chân trời Tổ quốc
Những ngày tháng 4 lịch sử này, khắp các đảo nổi, đảo chìm thuộc quần đảo Trường Sa đang dấy lên phong trào thi đua “Huấn luyện giỏi, kỷ luật nghiêm, nề nếp chính qui, đoàn kết quân dân tốt” chào mừng 42 năm ngày giải phóng.
Trong khi cán bộ chiến sĩ đảo Nam Yết miệt mài ngắm bắn mục tiêu trên không bằng súng 12,7 ly ngoài triền đảo dưới cái nắng nóng trên 38 độ C, thì tại sân băng của đảo Trường Sa Lớn, hàng trăm chiến sĩ trẻ “áo vằn cánh sóng” mồ hôi đầm đìa ke chân, nâng tay, chào theo điều lệnh, đi nghiêm nhìn bên phải chào. Ở một góc khác, một tốp chiến sĩ đang thực hành động tác đi đều đứng lại đổi chân trong khi đi. Còn ở đảo chìm Cô Lin, cán bộ chiến sĩ đang tăng cường huấn luyện phương án bảo vệ đảo và huấn luyện cập xuồng vào đảo. Mặc cho mặt trời trên đầu “rọi lửa”, “hơi nóng” từ cát bốc lên, song cán bộ chiến sĩ vẫn không rời vị trí huấn luyện.
Huấn luyện bắn mục tiêu đối không ở đảo Nam Yết. Ảnh: Trọng Thiết
Trung sĩ Mai Đăng Trường, Khẩu đội trưởng Khẩu đội DKZ thuộc phân đội 1- cụm chiến đấu số 2 ở đảo Nam Yết cho biết: “Thời tiết nắng nóng cũng là điều kiện để rèn luyện sức khỏe dẻo dai và bản lĩnh chiến đấu, sức chịu đựng với thời tiết khắc nghiệt của các chiến sĩ mới. Là người lính thì bất chấp tất cả nắng, mưa. Càng lính đảo, càng kiên cường huấn luyện”.
Nếu 42 năm trước, Trường Sa là khô cằn sỏi đá, đời sống quân dân huyện đảo gặp nhiều khó khăn, thì nay Trường Sa là thị tứ sầm uất giữa biển khơi, đời sống của quân dân ngày một thay da đổi thịt. Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và sự đùm bọc của nhân dân, bắt đầu từ năm 2009, Trường Sa đã khoác lên mình màu áo mới. 100% các đảo nổi, đảo chìm có điện thắp sáng bằng pin năng lượng mặt trời, phủ sóng Đài Truyền hình Việt Nam và điện thoại di động không dây. Ngoài nhiệm vụ canh chủ quyền Tổ quốc, mỗi đảo còn là điểm tựa cho bà con ngư dân từ đất liền ra đánh bắt thủy hải sản trên vùng biển này. Hằng năm có hơn 20 đoàn công tác, khách, người thân của cán bộ chiến sĩ từ đất liền ra thăm đảo. Sau cuộc hành trình “ba cùng” ngắn ngủi với lính đảo, họ trở về đất liền trong niềm cảm phục, tự hào về Trường Sa và những người lính kiên trung nơi chân trời Tổ quốc.