Tiến hành thanh tra lao động không cần phải báo trước, bất kể ngày giờ
- Tây Y
- 23:52 - 04/09/2018
Thanh tra an toàn vệ sinh lao động đi kiểm tra công trường
Theo quy định của Công ước 81 của Tổ chức lao động quốc tế thì thanh tra lao động có quyền vào thanh tra bất kỳ thời điểm nào mà không cần báo trước. Đây là quy định mang tính đặc thù của thanh tra lao động để phòng ngừa và bảo vệ sự xâm hại của người sử dụng lao động với người lao động tại nơi làm việc, bảo đảm phòng chống và xóa bỏ cưỡng bức lao động.
Nếu tiến hành thanh tra mà thanh tra lao động phải thực hiện báo trước thì sẽ không đảm bảo hiệu quả, không bảo vệ các quyền cơ bản tại nơi làm việc của người lao động.
Nội dung này đã được Bộ luật Lao động năm 1994 quy định. Tuy nhiên trong quá trình soạn thảo Bộ luật Lao động năm 2012, quy định này đã bị lược bỏ để phù hợp với quy định của Luật Thanh tra năm 2010: thanh tra lao động khi tiến hành thanh tra sẽ phải báo trước với người sử dụng lao động.
Báo cáo tổng kết quá trình thực thi Bộ luật Lao động 2012 cho thấy, thực tế hoạt động thanh tra lao động, phát hiện và bảo vệ các quyền cơ bản tại nơi làm việc của người lao động chưa kịp thời; có doanh nghiệp còn chống đối, không hợp tác với thanh tra lao động.
Do vậy, ở lần sửa đổi này, ban soạn thảo đề xuất khôi phục lại quy định về quyền của thanh tra được phép thanh tra, điều tra những nơi thuộc đối tượng, phạm vi thanh tra được giao bất cứ lúc nào mà không cần báo trước.
Dự kiến, dự thảo Bộ luật Lao động sẽ sớm hoàn thiện để đưa ra lấy ý kiến rộng rãi của doanh nghiệp và người lao động trong tháng 9 này.
Ông Nguyễn Tiến Tùng-Chánh thanh tra Bộ LĐ-TB&XH cho biết: Theo Nghị định 110/2017/NĐ-CP về Tổ chức hoạt động của thanh tra ngành Lao động-Thương binh và Xã hội, thì trình tự, thủ tục thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội đối với các cuộc thanh tra chuyên ngành lao động, an toàn, vệ sinh lao động được thực hiện như sau: Việc xây dựng và phê duyệt kế hoạch tiến hành thanh tra, phổ biến kế hoạch tiến hành thanh tra, xây dựng đề cương yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo, được thực hiện theo quy định tại Điều 18, Điều 19, Điều 20 Nghị định số 07/2012/NĐ-CP. Trường hợp thực hiện các cuộc thanh tra liên tiếp nhau, cùng thành phần đoàn thanh tra và nội dung thanh tra thì kế hoạch thanh tra được xây dựng gộp cho các cuộc thanh tra. Về Thông báo việc công bố quyết định thanh tra được thực hiện theo quy định tại Điều 21 Nghị định số 07/2012/NĐ-CP. Trường hợp nếu có căn cứ cho rằng việc báo trước sẽ ảnh hưởng đến kết quả thanh tra hoặc phải can thiệp ngay để bảo vệ quyền của người lao động hoặc bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc, đoàn thanh tra hoặc thanh tra viên được giao tiến hành thanh tra độc lập có quyền vào cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ bất kể ngày hay đêm mà không cần phải báo trước và phải được sự đồng ý của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp. Việc thực hiện thanh tra vào ban đêm, ngoài giờ hành chính có sự phối hợp của cơ quan chức năng có liên quan, cơ quan công an và chính quyền địa phương (nếu thấy cần thiết). Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì xây dựng cơ chế phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan. Về Công bố quyết định và báo cáo kết quả thanh tra, ông Nguyễn Tiến Tùng cho biết: Chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày ký quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm công bố quyết định thanh tra với đối tượng thanh tra, biên bản công bố quyết định thanh tra được lập chung với biên bản làm việc của đoàn thanh tra. Chậm nhất 10 ngày kể từ ngày kết thúc cuộc thanh tra cuối cùng của kế hoạch thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra phải có văn bản báo cáo tổng hợp kết quả thanh tra. Báo cáo tổng hợp kết quả thanh tra đảm bảo nội dung quy định tại Điều 25 Nghị định số 07/2012/NĐ-CP. Về Kết luận thanh tra chuyên ngành Nghị định 110/2017/NĐ-CP cũng quy định rõ: Căn cứ báo cáo tổng hợp kết quả thanh tra, nội dung giải trình của đối tượng thanh tra (nếu có), chậm nhất 15 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả thanh tra, người ra quyết định thanh tra phải ban hành kết luận thanh tra đối với từng đối tượng thanh tra. Nội dung kết luận thanh tra đảm bảo theo quy định tại Điều 27 Nghị định số 07/2012/NĐ-CP. Trong trường hợp đối tượng và nội dung thanh tra của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Sở Lao động - Thương binh và Xã hội có chồng chéo với đối tượng, nội dung thanh tra của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam; Bảo hiểm Xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì Bộ trưởng, Giám đốc Sở chủ trì phối hợp với Tổng Giám đốc Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Giám đốc Bảo hiểm Xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết; Việc xử lý chồng chéo trong hoạt động thanh tra lĩnh vực khác thuộc ngành Lao động - Thương binh và Xã hội được thực hiện theo quy định của pháp luật. |