Tham gia vào thị trường lao động giúp dân tộc thiểu số phát triển hơn
- Dược liệu
- 18:07 - 22/05/2019
Quang cảnh Hội thảo công bố Báo cáo nghiên cứu của WB
Tỷ lệ hộ nghèo của DTTS là 23%, gấp 3 lần mức trung bình cả nước
Các yếu tố khác, theo WB, bao gồm sự sẵn có của tư liệu sản xuất, khả năng tiếp cận giáo dục và dịch vụ y tế, thiết chế truyền thống và quản trị địa phương, mối quan hệ giới, quan niệm về tộc người, và khả năng tiếp cận với sự hỗ trợ từ bên ngoài.
Qua việc chỉ ra một cách có hệ thống các yếu tố chính giúp một số nhóm dân tộc vươn lên phát triển kinh tế trong khi các nhóm khác còn chậm cải thiện, nghiên cứu hy vọng cung cấp thêm thông tin cho việc sửa đổi các chính sách và chương trình dành cho đồng bào dân tộc thiểu số, ước tính chiếm tới 84% số người còn nghèo vào năm 2020.
Bộ trưởng-Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến đánh giá cao sự hỗ trợ kịp thời của WB, Đại sứ quán Australia tại Việt Nam trong việc phối hợp với Ủy ban Dân tộc tổ chức nghiên cứu sâu về những yếu tố tác động trực tiếp tới đời sống kinh tế, xã hội của các nhóm dân tộc thiểu số.
“Những thông tin và kết quả phân tích của báo cáo nghiên cứu này rất có giá trị cho công tác hoạch định và quản lý chính sách dân tộc, đặc biệt là trong thời điểm hiện nay khi Ủy ban Dân tộc đang được Chính phủ giao chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng Đề án tổng thể phát triển Kinh tế-Xã hội vùng dân tộc, miền núi và vùng KT-XH đặc biệt khó khăn giai đoạn sau 2020”, ông Chiến nói.
Thông tin từ nghiên cứu này cho thấy, tỷ lệ hộ nghèo của các nhóm dân tộc thiểu số ở Việt Nam là 23% (2016), cao hơn gấp ba lần mức trung bình của cả nước. Nghiên cứu đã chỉ ra con đường thoát nghèo của những nhóm “đi đầu”, trong trường hợp này là dân tộc Mường và Sán Dìu, phụ thuộc một phần vào sự kết nối thuận tiện giữa nơi cư trú tới các cơ sở hạ tầng cơ bản và các cụm trung tâm kinh tế.
Giúp DTTS đa dạng hóa các hoạt động sinh kế
Nghiên cứu cũng cho thấy các nhóm dân tộc này có khả năng tiếp cận tốt hơn tới các nguồn lực giúp họ đa dạng hóa các hoạt động sinh kế. Cụ thể hơn, các nhóm dân tộc này tham gia vào các hoạt động sản xuất và mua bán các cây trồng khác ngoài lúa, chủ động tìm kiếm công việc được trả lương ở các nhà máy, và tìm cách tác động tích cực với các bên liên quan có khả năng quyết định phân bổ nguồn lực.
Một nội dung khác của nghiên cứu này là phân tích chính sách hiện tại và đánh giá khả năng ảnh hưởng của nó trong việc thúc đẩy những yếu tố này. Kết quả cho thấy hệ thống hiện tại chú trọng chủ yếu đến kết nối hạ tầng, tiếp cận dịch vụ công và các chương trình tín dụng, trong khi để ngỏ một số khía cạnh khác.
Nghiên cứu này gợi ý một vài khuyến nghị chính sách, bao gồm xác định lại trọng tâm của công tác dân tộc trong tương lai và thúc đẩy các chính sách và cơ chế hiện có.
Các chính sách trong tương lai nên tập trung vào đầu tư hỗ trợ sản xuất và xây dựng năng lực, tiếp cận thị trường lao động, trao quyền kinh tế cho phụ nữ, đồng thời giảm thiểu những định kiến và kỳ thị xã hội.
Ngoài ra, cơ chế hiện tại cần vượt xa hơn các cải thiện kết nối hạ tầng tiến tới tới tăng cường các thể chế và chủ thể của thị trường để hỗ trợ việc kinh doanh tại các vùng dân tộc thiểu số.
“Từ nghiên cứu này, chúng tôi thấy có rất nhiều cơ hội để thúc đẩy hơn nữa chương trình nghị sự tăng tính hòa nhập xã hội bằng cách chủ động áp dụng cách tiếp cận mới đối với sự phát triển của các vùng dân tộc thiểu số,” Ông Ousmane Dione, Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam nói. “Việt Nam hoàn toàn có thể tin tưởng vào sự hỗ trợ của WB để lồng ghép chương trình này, qua các dự án đầu tư vào giao thông và cơ sở hạ tầng nông thôn và miền núi, đa dạng hóa nông nghiệp, cũng như hỗ trợ các Chương trình Mục tiêu Quốc gia”.
Nghiên cứu được thực hiện trong khuôn khổ chương trình Đối tác Chiến lược Ốtxtrâylia – Nhóm Ngân hàng Thế giới giai đoạn 2 (ABP2).