Những giai điệu chào đón hòa bình
- Văn hóa - Giải trí
- 02:30 - 21/02/2015
Đấy là giai điệu đầu tiên mang thông điệp hòa bình tới toàn cõi Việt Nam. Có lẽ đó là một ca khúc được viết nhanh nhất, được quyết định sử dụng nhanh nhất, và được phát sóng nhanh nhất, được tổ chức thu thanh nhanh nhất trong lịch sử âm nhạc hiện đại Việt Nam.
Nhạc sĩ Phạm Tuyên đã từng kể lại thật cảm động. Ngay từ ngày 28/4/1975 nghe tin các cánh quân của ta đã bao vây quanh Sài Gòn, nhạc sĩ đã nghĩ tới một giai điệu cho ngày toàn thắng.
Nhưng với ông trong giờ phút thiêng liêng ấy, không thể thiếu hình ảnh Bác Hồ, vì hơn ai hết, Bác là người khao khát điều này nhất từ khi đọc “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” đêm 19/12/1946.
Rồi sau đó là “Lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước” đầu năm 1965. Do vậy, “Như có Bác trong ngày vui đại thắng” đã được nhạc sĩ viết ra rất nhanh. Trưa 30/4/1975 khi tin giải phóng Sài Gòn vang trên làn sóng điện, Tổng giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam Trần Lâm đã hỏi anh em nhạc sĩ của đài ai có ca khúc nào cho giờ phút trọng đại này.
Nhạc sĩ Phạm Tuyên đã trình “Như có Bác trong ngày vui đại thắng”. Nghe xong, ông Trần Lâm quyết định sử dụng ngay. Sau quyết định toàn đoàn ca nhạc đài tiến hành luyện tập cả hát và nhạc theo bản phối khí.
Rồi sau đó “Như có Bác trong ngày vui đại thắng” được thu thanh với dàn đồng ca mà các nghệ sỹ vừa hát, vừa trào dâng những giọt nước mắt sung sướng. Chiều 30/4/1975, bài đồng ca đã được phát sóng.
Cũng vào thời điểm đó, một nhạc sĩ khác của đài là nhạc sĩ Hoàng Hà cũng vừa hoàn thành xong khúc khải hoàn về một ngày toàn thắng mang tên “Đất nước trọn niềm vui” sau khi “Như có Bác trong ngày vui đại thắng” lan truyền khắp nơi;
“Đất nước trọn niềm vui” đã được thu thanh qua giọng ca nam cao Trung Kiên với bản phối khí của nhạc sĩ Huy Thư: “Ta đi trong muôn ánh sao vàng rừng cờ tung bay, rộn ràng bao mê say những bước chân dồn về đây...”.
Ảnh minh họa: Nguồn Internet.
Ca khúc chất ngất trên những âm vực cao, sáng láng một tinh thần phơi phới không gợn chút bụi bặm: “Thành đồng ơi, sắt son đã vang khải hoàn, ôi hạnh phúc vô biên, hát nữa đi em những lời yêu thương...”.
Niềm vui vô bờ bến không thể nói thành lời đã được tác giả mô tả trong một đoạn: “Hò ơ!”... ngân dài trên những cung bậc tột cùng. Điều kỳ lạ nhất là, nếu ghi chép phần mở đầu bài đồng ca “Như có Bác trong ngày vui đại thắng”:
“Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng, lời bác nay đã thành chiến thắng huy hoàng...” còn làm nền cho đoạn hò nói trên thì các ô nhịp khép vào nhau vừa như in.
Vẫn như thế, đến đoạn kết của: “Đất nước trọn niềm vui”: “Đêm hoa đăng, ôi những môi cười là đóa hoa đời tươi thắm tuyệt vời, Đẹp niềm tin mãi mãi Tổ quốc muôn đời, Trọn vẹn cả non sông thống nhất rạng rỡ Việt Nam” lại ghép với phần sau của:
“Như có Bác trong ngày vui đại thắng” là điệp khúc: “Việt Nam Hồ Chí Minh” cũng thấy vừa như in. Đó là bí ẩn của sự sáng tạo. Dường như hai nhạc sĩ sáng tạo lên hai mảnh lưỡng nghi để ghép lại thành nhất nguyên của đường thái cực Việt Nam đồng dạng với chữ S của mẫu tự la tinh, mẫu tự mà chúng ta đã chọn làm quốc ngữ thay chữ Nôm từ sau cuộc cách mạng Đông kinh nghĩa thục thay bút lông bằng bút sắt.
Cuộc Cách mạng văn hóa xảy ra trước cuộc cách mạng tháng Tám, cũng vừa tròn một vận hội từ đầu thế kỷ.Một nhạc sĩ nữa cũng của Đài – nhạc sĩ Hồ Bắc- tác giả bản hợp xướng “Ca ngợi Tổ quốc” bất hủ, của Sài Gòn quật khởi “Bỏng cháy mùa xuân Tổng tấn công Mậu Thân 1968”, đã tiếp tục dòng chảy hào sảng bằng ca khúc “Tổ quốc yêu thương” được thu thanh qua giọng vàng Kiều Hưng:
“Ta đi trên đường mùa Xuân - Đường thênh thang tiếng hát yêu thương trong ánh mắt nụ cười rạng rỡ - ba mươi năm mới có một ngày - Quê hương ơi biết mấy tự hào. Giờ đây Nam Bắc - Cầm tay chung hát trên con đường vui...”.
Trong niềm vui chung, Hồ Bắc đã nhận ra giá trị hy sinh của những người lính đã ngã xuống từ đầu chiến tranh cho tới tận giờ phút cuối cùng trước cửa ngõ Sài Gòn: “Máu các anh đã đổ - cho sông núi ngày một rạng rỡ trong ngày toàn thắng...”.
Giá trị hy sinh cao cả mà Hồ Bắc đã từng nhắc đến trong hợp xướng “Ca ngợi Tổ quốc”: “Quê hương yêu dấu có những người dân cần lao yêu thương – đã bao máu xương đổ xuống quê hương cho đồng lúa tốt...”.
Giai điệu như khẳng định chiến thắng hôm nay là chiến thắng của hòa bình, của một dân tộc khát khao hòa bình.
Cùng với các nhạc sĩ của Đài Tiếng nói Việt Nam, các nhạc sĩ mặc áo lính cũng góp vào ngày toàn thắng những giai điệu chào đón hòa bình. Có một điền ngẫu nhiên nhưng rất trùng hợp là họ đều chọn điệu valse, một tiết điệu sang trọng của cung đình châu Âu đã được “Việt hóa” thành tiết điệu của làng quê Việt Nam làm nhịp cho những giai điệu chào đón hòa bình của mình.
Nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn- người đã từng góp công vào việc “Việt hóa” bằng ca khúc đầu tay “Quê em miền trung du” giờ lại thơ thới trong “Đất nước - Mùa Xuân”:
“Từ ngày hôm nay chỉ còn những tiếng ca - Tổ quốc bao la đất nước của chúng ta...”. Nhạc sĩ Văn An thì đi từ nhịp valse chậm (Boston) “Cánh diều miền Bắc”: “Chiều về nhẹ theo hơi gió... Sáo reo người chiến binh – xóa tan mầm chiến chinh...” đến “Trên đường hạnh phúc” (thơ Tạ Hữu Yên): “Nào bên nhau cầm tay - ta lên đường hạnh phúc- ta đi xây tương lai - trong tiếng chim gọi bầy - nhịp cầu xưa ngăn đôi - nhưng lòng ta gắn bó - đôi bờ chung nắng đỏ - thuyền ta chung ước mơ...”.
Nhạc sĩ Huy Du thì đi từ “Tình em” (thơ Ngọc Sơn): “Khi chiếc lá xa cành - lá không còn màu xanh- mà sao em xa anh - đời vẫn xanh rời rợi...” để nối từ chia ly tới xum họp qua “Việt Nam – Mùa Xuân”: “Từ Việt Nam hôm nay - Đồi núi thắm mênh mông... hát lên Việt Nam”...
Chào đón hòa bình, không chỉ các nhạc sĩ sáng tác mà cả nhạc sĩ chỉ huy Cao Việt Bách cũng góp vào một giai điệu hào sảng, bay bổng trong ca khúc hợp xướng “Tiếng hát từ thành phố mang tên Người” sau khi đã chỉ huy thu thanh những giai điệu trên:
“Từ thành phố này Người đã ra đi. Bao năm ước mong đón Bác trở về. Trong chiến dịch này Bác đã cùng về với những đoàn quân. Bác vẫn đến từng nhà thăm các cụ già, cầm tay chúng con. Bác bắt nhịp bài ca Kết đoàn...”.
Trong không khí mới rợi của hòa bình, có lẽ những người nghẹn ngào không nói thành lời chính là các nhạc sĩ ở miền Nam yêu thương. Đã dấn thân trong bao tháng năm khói lửa, họ thật sự bỡ ngỡ, thật sự chơi vơi giữa không gian chợt im bặt tiếng bom rơi, đạn nổ.
Nhưng đến mùa Xuân hòa bình đầu tiên thì không còn có thể kìm lòng được nữa. Ca khúc “Mùa xuân trên thành phố Hồ Chí Minh” của nhạc sĩ Xuân Hồng là một minh chứng sinh động nhất.
Ảnh minh họa: Nguồn Internet.
Để viết được ca khúc gan ruột của mình, Xuân Hồng đã nhớ ngày Nam bộ kháng chiến, ngày 23/9/1945.
Đúng là đã tròn 30 năm “Miền Nam đi trước về sau”. Bởi vậy ông đã lấy câu hát mở đầu ca khúc “Nam bộ kháng chiến” của Tạ Thanh Sơn: “Mùa thu ngày hăm ba ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến...” là chủ đề cho ca khúc mới về mùa xuân hòa bình đầu tiên của mình: “Mùa xuân này về trên quê ta, khắp đất trời vang vọng tiếng ca...”.
Nhạc sĩ Tôn Thất Lập khi Sài Gòn giải phóng đang công tác ở Paris. Sự kiện lớn lao khiến ông nghĩ lại những ngày “hát cho đồng bào tôi nghe” rực lửa của phong trào đấu tranh học sinh - sinh viên những năm tháng hào hùng mà ông là một linh hồn âm nhạc của đoàn thể.
Có lẽ thế nên trong mùa xuân hòa bình đầu tiên, Tôn Thất Lập thủ thỉ một giai điệu ấm áp, tinh khôi trong “Tình ca mùa xuân”: “Nửa đêm nghe xuân về- thấy đời lên rất trẻ...”.
Tuy nhiên trong thời điểm thiêng liêng ấy, còn rất nhiều những giai điệu chào đón hòa bình vang lên mà bài viết hạn hẹp này không thể kể hết được. Song cũng có những giai điệu được viết trong thời điểm ấy lại phải rất lâu sau mới được vang lên bởi nhiều trắc ẩn của thời thế.
Cũng là Cao Việt bách, nếu “Tiếng hát từ thành phố mang tên Bác” đã vang lên ngay, thì “Cung đàn mùa Xuân” (phổ thơ Lưu Trọng Lư) phải mất mấy năm sau hòa bình mới được vang lên bởi giọng hát Kiều Hưng: “Em ơi vút lên một tiếng đàn. Kìa đàn đã so dây. Cung đàn đã lựa phím. Đất nước mình xôn xao. Mùa vui đang nở rộ. Bình minh chiến thắng reo ca. Xuân về non nước bao la....”.
Chả biết quan niệm thế nào mà biên tập âm nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam lại không ký duyệt cho thu thanh ca khúc này - một ca khúc hay nằm trong top chừng vài chục ca khúc hay nhất trong dòng ca khúc Việt Nam hiện đại.
Bản thảo đã được tác giả mang ra lót nồi cơm nhem nhuốc màu than trong bữa cơm mời nhạc sĩ Đặng An Nguyên. Trong lúc chờ thức ăn bê lên, nhạc sĩ Đặng An Nguyên tình cờ ngó vào tờ giấy lót nồi và phát hiện ra đó là một bản thảo của bạn. Ông lấy tờ khác lót vào nồi cơm và cầm bản thảo lên đọc.
Vừa đọc ông vừa sửng sốt bởi vẻ đẹp giai điệu của nhạc phẩm. Ngay lập tức, ông đề nghị cho “Cung đàn mùa xuân” được thu thanh. Và giai điệu ấy đã vang lên tự hào đến mức sau 40 năm, tên của ca khúc đã trở thành tên cho chương trình “Giai điệu tự hào” mở đầu năm 2015.
Cũng có một ca khúc mang chung số phận như “Cung đàn mùa xuân” của Cao Việt Bách (phổ thơ Lưu Trọng Lư), đó là ca khúc “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao, “Mùa xuân đầu tiên” được viết năm 1976, như một khúc khải huyền của hòa bình. Mặc dù nó đã được dịch ra tiếng Nga và ấn hành tại Liên Xô cũ, nhưng trong nước thì không nhà biên tập nào dám đứng ra ký thu thanh.
Có lẽ lúc ấy, cái ách “Nhân văn giai phẩm” trên vai Văn Cao chưa được quyền lực tháo bỏ và ca khúc cứ thế nằm phủ bụi lãng quên trong chiếc tủ xập xệ của tác giả “Quốc ca Việt Nam”. Mãi tới mùa xuân năm 1985, “Mùa xuân đầu tiên” mới được người viết bài này lôi ra lau bụi.
Nhưng cũng phải tới năm 1991, khi người viết bài này được hội Việt kiều người Pháp đặt làm phim về Văn Cao, “Mùa xuân đầu tiên” mới lần đầu tiên được thu thanh qua giọng hát Quốc Đông.
Đến năm 1993, trong chương trình ca nhạc kỷ niệm Văn Cao 70 tuổi, “Mùa xuân đầu tiên” mới được trình diễn trên sân khấu Cung văn hóa Thanh niên Hà Nội qua giọng nữ Minh Hoa. Và thực sự, phải sau khi Văn Cao qua đời (10/7/1995), “Mùa xuân đầu tiên” mới bắt đầu ngấm vào nhân gian: “Từ đây người biết thương người – từ đây người biết yêu người - từ đây người sống yêu đời”.
Trong chương trình “Giai điệu tự hào” tháng 4/2014, “Mùa xuân đầu tiên” đã vang lên khẳng định và đã được bình chọn để biểu diễn trong “Gala 2014” phát sóng VTV1 dịp xuân Ất Mùi 2015.
Nhìn lại thời điểm thiêng liêng của đất nước 40 năm trước, chợt thấy vang lên quanh mình biết bao giai điệu chào đón hòa bình rất đỗi thân quen, mà lòng ẩm ướt biết bao cảm xúc, biết bao nỗi niềm.
40 năm là độ tuổi con người đã chín chắn “tứ thập bất hoặc” đủ để nhận thấy những trải nghiệm vừa hạnh phúc vừa xót đắng. Nhận thấy để càng thêm yêu quý những ngày sẽ sống tiếp, sẽ dấn thân tiếp cho mình, cho dân tộc mình.
Những năm tháng mà càng lúc, chữ hòa bình càng lấp lánh, càng quý báu như kim cương đối với Tổ quốc Việt Nam.