Nghệ An: Hỗ trợ tạo việc làm hiệu quả từ Quỹ quốc gia về việc làm
- Bài thuốc hay
- 01:51 - 20/10/2018
Giải quyết việc làm cho 5.554 lao động
Ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 09/07/2015 quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm và các Thông tư Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH hướng dẫn thực hiện một số điều về Quỹ quốc gia về việc làm, Sở LĐ-TB&XH tỉnh Nghệ An đã triển khai tuyên truyền, phổ biến chính sách cho vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm; phối hợp triển khai cho vay vốn hỗ trợ tạo việc làm thông qua hệ thống chi nhánh Ngân hàng chính sách xã hội từ cấp tỉnh xuống cấp huyện, các điểm giao dịch cấp xã, phường, thị trấn và các tổ chức hội. Nguồn vốn vay từ Quỹ quốc gia về việc làm đã phát huy được hiệu quả, góp phần tạo việc làm đem lại thu nhập cho người dân.
Theo số liệu của Sở LĐ-TB&XH tỉnh Nghệ An, số nguồn vốn cho vay năm 2016 là 53.662 triệu đồng, năm 2017 là 65.465 triệu đồng và 8 tháng đầu năm 2018 là 54.544 triệu đồng. Kết quả đạt được từ hoạt động cho vay vốn hỗ trợ tạo việc làm từ Quỹ quốc gia về việc làm từ năm 2016 đến hết 31/8/2018 là đã hỗ trợ cho vay 5.261 dự án vay vốn của cá nhân, tổ chức và góp phần giải quyết việc làm cho 5.554 người lao động. Trong đó, chủ yếu là cho vay vốn theo hộ gia đình, chỉ có một số rất ít cho vay đối với cơ sở sản xuất kinh doanh. Đối tượng cho vay tập trung nhiều vào người dân tộc thiểu số và các hộ nghèo, hộ cận nghèo. Mức vay vốn bình quân của các hộ gia đình giao động từ 25 – 35 triệu đồng/dự án. Mục đích sử dụng vốn được phân theo từng vùng miền: đối với các huyện miền núi, chủ yếu cho vay chăn nuôi gia súc và đại gia súc, trồng rừng; các huyện đồng bằng có thêm các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp; vùng ven biển cho vay mua sắm ngư cụ, nuôi trồng thủy – hải sản; vùng thành, thị cho vay mở rộng kinh doanh dịch vụ.
Hàng năm, tỉnh Nghệ An đều có thành lập đoàn kiểm tra của Ban đại diện Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh (NHCSXH tỉnh) để kiểm tra, đánh giá hoạt động cho vay vốn hỗ trợ tạo việc làm từ Quỹ quốc gia về việc làm. Công tác quản lý cho vay, thu hồi nợ được thực hiện nghiêm túc, việc giám sát sử dụng vốn cho đến đôn đốc trả nợ được tổ trưởng, tổ chức hội nhận ủy thác cấp xã và NHCSXH chịu trách nhiệm theo dõi thường xuyên, liên tục. NHCSXH phối hợp với các tổ chức nhận ủy thác gồm Hội LHPN, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh và Đoàn Thanh niên, UBND các cấp và các ngành có liên quan nâng cao chất lượng cho vay thông qua việc nâng cao chất lượng bình xét đối tượng cho vay; kiểm tra giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn; đôn đốc thu lãi hàng tháng, vận động trả nợ dần theo định kỳ; tăng cường nhắc nhở, đôn đốc người vay trả nợ đúng hạn; phối hợp lập hồ sơ đề nghị xử lý rủi ro kịp thời đối với các hộ bị rủi ro do nguyên nhân khách quan. Tính đến 30/09/2018, tỷ lệ nợ quá hạn đối với nguồn vốn vay từ Quỹ quốc gia về việc làm là 0,41%, thấp hơn so với mặt bằng chung của cả nước khoản. Ngoài ra, công tác phân bổ cân đối nguồn vốn giữa các địa bàn được thực hiện linh hoạt để tăng hiệu quả sử dụng vốn. Nhờ đó đảm bảo Quỹ quốc gia về việc làm phát huy được hiệu quả trong công tác giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Nhiều lao động trẻ được vay vốn hỗ trợ tạo việc làm từ Quỹ Quốc gia về việc làm
Nguồn vốn cho vay chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân
Theo Sở LĐ-TB&XH tỉnh Nghệ An, mặc dù, trong giai đoạn 2016 – 2018 doanh số cho vay vốn hỗ trợ tạo việc làm từ Quỹ quốc gia về việc làm của tỉnh đều tăng và vượt kế hoạch đề ra nhưng vẫn chưa đáp ứng được hết nhu cầu của người dân trên địa bàn. Hiện nay, nhu cầu vay vốn giải quyết việc làm tại các huyện, thành thị trên địa bàn tỉnh Nghệ An vẫn còn tương đối lớn trong khi đó nguồn vốn được phân bổ hàng năm có hạn và việc tìm kiếm các nguồn khác để bổ sung cho vay cũng khó khăn. Số lượng nhu cầu vay vốn của người lao động tập trung nhiều để tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm. Riêng nhu cầu hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng thì hạn chế hơn do một số lao động không đủ điều kiện vay vốn; một số có tâm lý e ngại trong việc vay vốn; một số trường hợp khác người lao động tự túc được chi phí nên không có nhu cầu vay ngân hàng.
Bên cạnh đó, công tác cho vay vốn tại các huyện nghèo vùng miền núi cũng gặp một số hạn chế, khó khăn như: Việc di cư tự do của đồng bào Mông tại một số xã vùng giới gây ra nhiều khó khăn trong quản lý nợ; Mặt bằng dân trí, cơ sở hạ tầng còn nhiều hạn chế; mạng lưới thú y & hệ thống phòng dịch còn yếu; việc lồng ghép các chương trình dự án trên địa bàn với hoạt động tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm chưa đồng bộ làm hạn chế hiệu quả vốn vay; Hiệu quả tuyên truyền, vận động đồng bào DTTS thay đổi một số tập quán sinh hoạt, tư duy sản xuất chưa thực sự rõ nét. Một bộ phận khá lớn còn chậm thay đổi về nếp nghĩ, cách làm, thậm chí còn tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước, chưa nỗ lực vươn lên thoát nghèo.