THỨ SÁU, NGÀY 22 THÁNG 11 NĂM 2024 06:34

Kinh nghiệm phát triển du lịch của Thái Lan và một số gợi ý đối với Việt Nam

 

Thái Lan có ngành công nghiệp du lịch phát triển, gây ấn tượng đối với khu vực và thế giới. Đối với Việt Nam tuy có nhiều tiềm năng và lợi thế về phát triển du lịch; nhưng sự phát triển trong những năm qua chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế vốn có và chỉ số cạnh tranh còn thấp. Để đưa ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn thì việc học tập kinh nghiệm của Thái Lan là có ý nghĩa và cần thiết đối với Việt Nam. Với phương pháp so sánh, phân tích và tổng hợp cùng với quá trình nghiên cứu thực tế; kết hợp dựa trên báo cáo cạnh tranh về du lịch và lữ hành của Diễn đàn Kinh tế Thế giới năm 2015, nội dung của bài báo đề cập và phân tích 3 vấn đề, gồm: Một số thành công nổi bật của ngành du lịch Thái Lan; kinh nghiệm phát triển du lịch của Thái Lan và một số gợi ý đối với Việt Nam.

 

Thái Lan được thế giới biết đến như là một thiên đường du lịch, xứ sở “đất nước nụ cười” của khu vực. Ngành du lịch Thái Lan thực sự là ngành kinh tế “mũi nhọn” - ngành công nghiệp “không khói” đóng góp 9% GDP của Thái Lan, đối với Việt Nam chỉ có 4,6% (năm 2013). Tại sao du lịch Thái Lan lại phát triển mạnh và có vị trí cao trong khu vực và thế giới? Việt Nam có thể học tập được những kinh nghiệm gì từ phát triển du lịch của Thái Lan? Bài báo này muốn làm rõ một số kinh nghiệm của Thái Lan về phát triển du lịch và nêu lên một số gợi ý đối với Việt Nam.

 

 

Một số thành công nổi bật của ngành du lịch Thái Lan

Thái Lan có ngành du lịch phát triển mạnh ở Châu Á. Ngành du lịch là ngành thu được nguồn ngoại tệ chủ yếu và cao hơn các ngành sản xuất khác của Thái Lan. Mặc dù phải đương đầu với nhiều cuộc biểu tình và tình hình chính trị bất ổn nhưng ngành du lịch Thái Lan vẫn có sự phát triển thần tốc đáng kinh ngạc khi năm 2013 đã có 26,5 triệu lượt khách quốc tế với doanh thu đạt 42,10 tỷ USD, đứng thứ 10 trong số các điểm đến thu hút được nhiều du khách quốc tế nhất năm 2013. Tuy chỉ đứng thứ 10 về lượng khách quốc tế đến nhưng Thái Lan lại đứng thứ 7 trong số các nước và vùng lãnh thổ có doanh thu từ du lịch quốc tế cao nhất năm 2013, và cũng là nước có tỷ lệ tăng doanh thu ấn tượng nhất, 23,1% so với doanh thu du lịch quốc tế năm 2012 (xem bảng 1).

Danh sách các nước, vùng lãnh thổ có doanh thu từ du lịch quốc tế cao nhất năm 2013
STT Nước 2012 (tỷ USD) 2013 (tỷ USD) 2013/2012 (%)

1

Mỹ

126,2

139,6

10,6

2

Tây Ban Nha

56,3

60,4

3,9

3

Pháp

53,6

56,1

1,3

4

Trung Quốc

50

51,7

1,4

5

Macao (Trung Quốc)

43,7

51,6

18,1

6

I-ta-li-a

41,2

43,9

3,1

7

Thái Lan

33,8

42,1

23,1

8

Đức

38,1

41,2

4,5

9

Anh

36,2

40,6

13,2

10

Hồng Kông (Trung Quốc)

33,1

38,9

17,7

Nguồn: UNWTO Tourism Highlights 2014. [22, tr.6]

Trong các năm qua, Thái Lan đã khẳng định vị trí tại khu vực và thế giới về phát triển du lịch. Năm 2013 Thái Lan đã nhận được giải thưởng “Điểm đến được ưa thích nhất ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương”, do Travel Trade News trao tặng. Cũng năm 2013, độc giả báo Travel+ Leisure bình chọn Thái Lan ở hai giải thưởng là điểm đến được ưa thích nhất và địa điểm tổ chức đám cưới tốt nhất. Thủ đô Bangkok và thành phố Chiang Mai cũng được độc giả báo Condé Nast Traveller bầu chọn trong danh sách 25 thành phố du lịch tốt nhất, 8 khu nghỉ mát của Thái Lan lọt vào danh sách top 20 “Khu nghỉ mát tốt nhất” khu vực châu Á.

Theo Forbes năm 2013, thủ đô Bangkok của Thái Lan cũng được xếp thứ 1 trong danh sách 10 thành phố có số lượng du khách quốc tế đến nhiều nhất trên thế giới, với 15,98 triệu lượt khách.

Danh sách 10 thành phố có lượt khách quốc tế đến nhiều nhất trên thế giới năm 2013

STT

Tên thành phố

Tên nước

Số lượt khách quốc tế năm 2013 (Triệu lượt)

1

Bangkok

Thái Lan

15,98

2

London

Anh

15,96

3

Paris

Pháp

13,92

4

Singapore

Xin-ga-po

11,75

5

New York

Mỹ

11,52

6

Instanbul

Thổ Nhĩ Kỳ

10,37

7

Dubai

Các tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất

9,89

8

Kuala Lumpur

Ma-lai-xi-a

9,20

9

Hong Kong

Hồng Kông, Trung Quốc

8,72

10

Barcelona

Tây Ban Nha

8,41

 Nguồn: Top global destination cities in 2013, Forbes.com

Theo Báo cáo Cạnh tranh du lịch và lữ hành năm 2015, Diễn đàn Kinh tế Thế giới: Chỉ số xếp hạng cạnh tranh du lịch và lữ hành (TTCI) năm 2015 , Thái Lan xếp thứ 35, Việt Nam xếp thứ 75/141 quốc gia tham gia xếp hạng; Việt Nam xếp sau Thái Lan 40 bậc. Cũng theo thống kê của ASEAN, năm 2015, khách du lịch đến Thái Lan là 24.799.800 lượt khách, chỉ sau Ma-lai-xi-a là 27.437.300 lượt khách; Việt Nam là 7.874.300 lượt khách. Như vậy, lượt khách quốc tế đến Việt Nam chỉ bằng 31,77% so với Thái Lan. Việt Nam vốn được coi là có nhiều tiềm năng và lợi thế về phát triển du lịch: nguồn tài nguyên thiên nhiên độc đáo, di sản văn hóa-lịch sử nổi tiếng, vị trí địa lý thuận lợi, chính trị-an ninh ổn định; nhưng về tổng thể du lịch Việt Nam tuy đã phát triển nhưng vẫn bị tụt hậu nhiều lần so với Thái Lan. Sau đây là một số kinh nghiệm về phát triển du lịch của Thái Lan.

 Kinh nghiệm phát triển du lịch của Thái Lan

          Kinh nghiệm  xây dựng chính sách

Chính sách xuất nhập cảnh:

Thái Lan là một trong những quốc gia tiên phong trong việc thực hiện chính sách “Bầu trời mở”. Thái Lan đã có những biện pháp để đơn giản hóa thủ tục visa cho công dân các nước vào du lịch Thái Lan. 

Hiện nay công dân của 55 quốc gia và vùng lãnh thổ không cần visa vào Thái Lan nếu đến Thái Lan với mục đích du lịch và ở lại không quá 30 ngày đối với mỗi lần viếng thăm. Nếu như công dân của những nước đến du lịch Thái Lan thông qua các điểm nhập cảnh ở các nước tiếp giáp biên giới với Thái Lan thì sẽ được miễn visa du lịch trong thời hạn 15 ngày, ngoại trừ công dân Ma-lai-xi-a được miễn visa du lịch nếu lưu trú không quá 30 ngày. Thái Lan đã có thỏa thuận song phương về miễn visa với các nước như Brazil, Hàn Quốc và Pê ru, Ác-hen-ti-na, Chi Lê. Các thỏa thuận này cho phép công dân các nước trên có hộ chiếu ngoại giao hay phổ thông đều được miễn visa đối với mỗi lần viếng thăm Thái Lan không quá 90 ngày.

Công dân nước ngoài viếng thăm Thái Lan với mục đích kinh doanh có thể dùng visa loại “B” trong vòng 3 năm. Loại visa này được phát hành cho giới doanh nhân và có giá trị trong vòng 3 năm, cho phép người giữ visa có thể viếng thăm thường xuyên mà không cần xin visa cho mỗi lần đi trong thời hạn 3 năm và ở tại các khách sạn của Thái Lan trong thời gian không quá 90 ngày đối với mỗi lần viếng thăm.

Chính sách thuế: 

Một trong những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn của việc mua sắm ở Thái Lan là chính sách thuế. Du khách đến Thái Lan theo visa du lịch sẽ được hoàn lại thuế giá trị gia tăng (Value Added Tax - VAT) (thuế suất 7%) đối với những hàng hóa đã được mua tại các cửa hàng có treo biển hiệu “Hoàn thuế giá trị gia tăng cho khách du lịch”.

Ngoài ra, các địa điểm bán hàng thủ công địa phương của Thái Lan cũng được chính phủ miễn thuế VAT. Các công ty lữ hành có thu nhập thấp hơn 600.000 baht cũng được miễn thuế VAT. Với các công ty lữ hành có thu nhập lớn hơn 600.000 baht nhưng ít hơn 1.200.000 bath thì được quyền lựa chọn chỉ nộp 1,5% thuế doanh thu hoặc nộp thuế VAT thông thường.

              Kinh nghiệm trong phát triển nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực cho phát triển ngành du lịch ở Thái Lan có chỉ số cạnh tranh cao hơn Việt Nam. Do mở cửa nền kinh tế và phát triển nền kinh tế thị trường theo hướng hiện đại đi trước Việt Nam nhiều năm, nên đội ngũ chuyên gia và nhân viên cho ngành du lịch đã được đào tạo và bồi dưỡng tốt hơn, chuyên nghiệp hơn cả về trình độ chuyên môn và tay nghề. Đối với Thái Lan. cả nhà vua, chính phủ và người dân cùng làm du lịch. Thái Lan là một trong những quốc gia có mô hình du lịch dựa vào cộng đồng rất tốt. Các loại hình du lịch như du lịch nông nghiệp, du lịch “homestay” được phát triển và luôn thu hút đông đảo được người dân tham gia. Người dân địa phương đóng vai trò như những hướng dẫn viên du lịch, hướng dẫn du khách cách trồng trọt, chăn nuôi, giới thiệu cho du khách về văn hóa của địa phương. Đặc biệt, năm 2003 Thái Lan đã đẩy mạnh chương trình “Mỗi làng một sản phẩm”. Chương trình đã thu hút được sự tham gia đông đảo của người dân ở các làng nghề và giúp giới thiệu sản phẩm đặc trưng của từng địa phương đến du khách.

Thái Lan được mệnh danh là “Đất nước của những nụ cười”. Chỉ riêng cách gọi này cũng đã chứng minh được sự thân thiện của người dân Thái Lan. Thật vậy, đến Thái Lan du khách sẽ bị ấn tượng bởi sự thân thiện của người dân Thái Lan. Nụ cười luôn nở trên môi, từ những cô gái xinh đẹp, nhân viên phục vụ khách sạn cho tới công chức, người lái xe, cảnh sát. Đúng như khẩu hiệu của Thai Airways “Smooth as silk” (“Mềm như lụa”). Các tiếp viên hàng không Thái Lan luôn phục vụ du khách với thái độ niềm nở thân thiện.

Việc đào tạo chuyên môn cho nhân lực du lịch luôn nhận được sự quan tâm của ngành du lịch Thái Lan. Các hướng dẫn viên du lịch Thái Lan được đào tạo ngoại ngữ một cách bài bản. Một hướng dẫn viên người Thái thường biết 3 ngoại ngữ. Các dịch vụ như đăng kí visa, vé máy bay, thuê xe, đăng kí khách sạn được phục vụ một cách chuyên nghiệp. Năm 2003, Thái Lan đã thiết lập trung tâm hỗ trợ nhân lực cho du lịch. Trung tâm này hoạt động như một trung tâm hỗ trợ kỹ thuật và tư vấn cho các đơn vị hoạt động trong ngành với mục tiêu tăng cường đồng bộ chất lượng ngành du lịch Thái Lan.

           Kết hợp du lịch với Thương mại để tăng doanh thu ngành du lịch

Đến Thái Lan, du khách sẽ có cảm giác toàn dân làm du lịch, từ dịch vụ cho đến các sản vật địa phương mang bản sắc văn hoá. Tất cả được tính toán chi li làm sao để du khách phải móc hầu bao một cách vui vẻ dễ chịu. Thái Lan đã kết hợp các hoạt động du lịch với hoạt động thương mại nhằm thu hút khách du lịch theo những cách hợp lý, nghệ thuật và mang lại hiệu quả cao nhất. Trước hết, ngành du lịch đã kết hợp với các cơ sở sản xuất để thu hút khách du lịch chi tiêu một cách nghệ thuật. Điển hình như du khách sẽ được đi tham quan viện nghiên cứu nọc độc rắn ở Bangkok và xem màn biểu diễn với rắn rùng rợn của nghệ nhân Thái. Sau đó, họ sẽ được đưa vào phòng nghe thuyết trình về các dược liệu sản xuất từ rắn. Bài thuyết trình sẽ do các dược sĩ chuyên nghiệp trình bày. Khách nước nào sẽ có người thuyết trình bằng tiếng nước đó. Nghe xong, du khách khó lòng từ chối mua những lọ thuốc quý hiếm mặc dù nó rất đắt tiền (trung bình 100USD/lọ 80 viên). Ngoài ra bạn sẽ được các thợ ảnh chăm sóc kỹ lưỡng, những khoảnh khắc thú vị của du khách được nắm bắt, họ cứ tự nhiên chụp ảnh du khách, rồi sau đó in nhanh ra, gắn ảnh lên dĩa sứ, bát sứ hoặc các tấm bưu thiếp. Tuỳ khách có lấy ảnh hay không. Không một nơi nào du khách bị “ép” lấy chính những tấm hình của mình. Giá cho mỗi tấm ảnh gắn trên dĩa sứ, hoặc nhựa từ 100 baht (khoảng 70.000 đồng) đến 150 baht.

Thái Lan không được thiên nhiên ưu đãi nhiều thắng cảnh nổi tiếng như Việt Nam. Không có danh thắng như vịnh Hạ Long, không có thiên nhiên hung vĩ như Tây Bắc… hầu như những nơi khách nước ngoài ghé thăm đều là các khu du lịch được con người xây dựng nên, như làng văn hoá Noong Noc rộng tới 8 ha đều xây dựng nhân tạo. Hay vườn thú thiên nhiên Safari World được đầu tư đến 100 triệu USD, chia làm hai phần vườn thú thiên nhiên và vui chơi giải trí. Ở khu vui chơi giải trí liền kề, du khách được thưởng thức các tiết mục biểu diễn của cá heo thông minh, xem hải cẩu làm xiếc... tất cả các điểm du lịch kết hợp mua sắm, quảng bá cho một sản phẩm rất bài bản đã khiến du khách vui vẻ mở hầu bao. Tại Thái Lan, mọi hoạt động du lịch đều được “thương mại hóa” một cách hợp lý nhất. Chính vì thế mà du lịch trở thành ngành công nghiệp “không khói” tại Thái Lan. Nếu như năm 1998 là 7,76 triệu lượt người với tổng doanh thu khoảng 6 tỉ USD. Năm 2008, con số này đã tăng lên 16,38 tỉ USD. Năm 2012, Thái Lan đón hơn 22,3 triệu khách du lịch từ khắp thế giới mặc dù kinh tế thế giới khủng hoảng. Con số này là 26,5 triệu khách năm 2013 và doanh thu từ du lịch quốc tế đạt 42,1 tỷ USD. Năm 2013, ngành công nghiệp du lịch và lữ hành của Thái lan đóng góp cho GDP của Thái Lan là 34.928 triệu USD; trong khi đó của Việt Nam là 7.135 triệu USD, bằng 20,42% so với Thái Lan

               Chính sách phát triển đa dạng các sản phẩm du lịch

 Du lịch văn hóa:

Du lịch văn hóa là một trong những loại hình du lịch của Thái Lan hấp dẫn nhiều du khách. Sản phẩm du lịch văn hóa ở Thái Lan bao gồm việc thăm quan các đền chùa (đặc biệt là các chùa Phật giáo), bảo tàng, các di tích lịch sử… Du khách không chỉ được tận mắt chứng kiến sự độc đáo của văn hóa Thái Lan mà còn được tự mình thưởng thức và trải nghiệm nền văn hóa đó.

-  Du lịch sinh thái:

Trong những năm gần đây du lịch sinh thái đã trở thành một loại hình du lịch hấp dẫn du khách và Thái Lan là một điểm đến hấp dẫn. Thái Lan hiện có 79 vườn quốc gia cùng với nhiều khu bảo tồn thiên nhiên. Các công viên ở Thái Lan chiếm 25.000 m2 và chiếm 15% diện tích cả nước. Trong các vườn quốc gia là nơi sinh sống của nhiều loại thú quý hiếm. Thái Lan đã kết hợp du lịch sinh thái và du lịch mạo hiểm tạo nên sản phẩm độc đáo phục vụ du khách. Tại các vườn quốc gia ở phía Bắc trekking là một loại hình du lịch phổ biến trong khi đó tại các vườn quốc gia ở phía Nam thì lặn và tham quan dưới nước lại rất phổ biến. Ngoài ra, khám phá hang động là một loại hình du lịch được nhiều du khách ưa thích.

-  Du lịch MICE:

Du lịch MICE là loại hình du lịch kết hợp hội nghị, khen thưởng, hội thảo, triển lãm. Thái Lan là một trong 10 quốc gia Châu Á, nơi tổ chức số lượng lớn các cuộc hội họp. Hiện nay nước này là điểm đến lớn thứ 18 của thế giới đối với khách MICE với 30 sự kiện tầm cỡ quốc tế được tổ chức mỗi năm. Năm 2013 MICE của Thái Lan thu hút được hơn 1 triệu lượt khách, trong đó 72% lượt khách đến từ các nước châu Á.

Các mắt xích trong chuỗi dịch vụ của MICE gồm hệ thống giao thông, các khu hội chợ, triển lãm, hội thảo, khách sạn, nhà hàng, điểm du lịch, mua sắm được kết nối hoàn chỉnh, giúp du khách thuận tiện hơn trong nhiều hoạt động tại Bangkok cũng như các thành phố lớn. Đối với du lịch MICE vấn đề an ninh là hết sức quan trọng; chính vì vậy hệ thống kiểm soát an ninh MICE đã được thiết lập để cùng hợp tác với các cơ quan hữu quan. Để thúc đẩy hoạt động du lịch MICE, từ năm 2002 Thái Lan đã thiết lập Văn phòng Hội nghị và Triễn lãm Thái Lan (Thailand Convention and Exhibition Bureau - TCEB) để tăng cường phát triển loại hình du lịch này.

- Du lịch chữa bệnh:

Thái Lan cùng với Xin-ga-po và Ấn độ là các nước đang chiếm 90% thị trường du lịch chữa bệnh ở khu vực châu Á. Trong năm 2009 Thái Lan đã đón 2 triệu khách du lịch quốc tế đến chữa bệnh và đến năm 2012 con số này đã tăng lên 2,5 triệu lượt khách.

Các dịch vụ chữa bệnh ở Thái Lan bao gồm từ phẫu thuật tim phức tạp, giải phẫu thẩm mỹ, chăm sóc răng miệng, thậm chí cả những loại hình điều trị chuyên biệt như là đông y, yoga.

Hiện tại ở Thái Lan có 30 bệnh viện sẵn sàng phục vụ các bệnh nhân nước ngoài. Các phòng ở bệnh viện đều được trang bị hiện đại, phục vụ đầy đủ nhu cầu của du khách từ mức bình thường đến xa xỉ. Ở Thái Lan có hai bệnh viện nổi tiếng chuyên tiếp khách du lịch chữa bệnh nước ngoài: Bệnh viện Bangkok và Bệnh viện quốc tế Bumrungrad - một trong những trung tâm y tế lớn nhất, hiện đại nhất. Chính dịch vụ chăm sóc y tế hoàn hảo đã giúp Thái Lan nhanh chóng trở thành trung tâm chăm sóc sức khỏe ở châu Á và là một trong những địa điểm du lịch chữa bệnh hàng đầu trên thế giới.

- Du lịch nông nghiệp:

Gần đây, TAT đã tạo ra một bước đột phá khi xúc tiến một loại hình du lịch mới, du lịch nông nghiệp. Du lịch nông nghiệp bao gồm nhiều hoạt động liên quan đến nông nghiệp mà du khách có thể tham gia và khám phá như: trồng lúa, trồng hoa, rau quả và chăn nuôi. Thông thường du lịch nông nghiệp hay kết hợp với du lịch  “homestay”. Du khách sống với những người nông dân và quan sát, tham gia vào các hoạt động hàng ngày của họ. Các tour du lịch nông nghiệp ở Thái Lan trải dài từ các khu vực đối núi ở miền bắc đến vườn cây ăn quả của Rayong, Chanthaburi đến những làng cá ở miền nam.

- Du lịch mua sắm:

Nhắm khuyến khích du khách tiêu tiền, Thái Lan đã rất chú trọng đến phát triển du lịch mua sắm. Rất nhiều trung tâm mua sắm được xây dựng để đáp ứng nhu cầu của du khách. Bangkok được mệnh danh là thiên đường mua sắm, là nơi nổi tiếng với nhiều đồ đạc, hàng hoá giá rẻ. Mua sắm ở Bangkok không giới hạn ở một hay hai địa điểm mà hiện diện ở khắp nơi trong thành phố từ các trung tâm mua sắm hiện đại, cửa hàng bách hóa thanh lịch, đến các cửa hiệu nhỏ, cùng với nhiều chợ theo kiểu truyền thống rất thuận tiện cho du khách mua sắm. Mua sắm ở Thái Lan được phân tầng theo mức giá: Hàng giá cao (đồng nghĩa với chất lượng cao); hàng giá trung bình (chất lượng vừa phải); hàng giá thấp (nghĩa là chất lượng thấp). Hướng dẫn viên du lịch nắm chắc các siêu thị bán hàng, các trung tâm mua sắm và địa điểm để giới thiệu với du khách lựa chọn, phù hợp với sở thích và khả năng thanh toán.

               Kinh nghiệm đẩy mạnh makerting du lịch

Công tác marketing của Thái Lan bắt đầu từ những chiến dịch quảng bá du lịch với các khẩu hiệu độc đáo và sáng tạo qua từng năm. Trong đó khẩu hiệu “Amazing Thailand” được sử dụng từ năm 1998 đến nay vẫn phát huy tác dụng. Thái Lan đã sử dụng kết hợp nhiều công cụ marketing hiệu quả để quảng bá hình ảnh du lịch.

Tổng cục du lịch Thái Lan (Tourism Authority of Thailand - TAT) hiện có 27 văn phòng đại diện ở nước ngoài: Châu Âu (6 văn phòng), Châu Á (18 văn phòng), Châu Mỹ (2 văn phòng), Châu Đại Dương (1 văn phòng). Việc mở nhiều văn phòng đại diện tại nước ngoài là một công cụ hữu hiệu giúp xúc tiến du lịch Thái Lan tại các nước sở tại.

Các cuộc phỏng vấn chuyên nghiệp đối với khách du lịch được thực hiện và đăng tải trên mạng. Rất nhiều văn phòng đại diện của TAT ở nước ngoài hiện nay có trang web riêng. Thái Lan còn mời các nhân vật nổi tiếng đến thăm Thái Lan và tranh thủ quảng bá trên các phương tiện truyền thông khi sự kiện này xảy ra. TAT cũng khuyến khích quảng bá truyền miệng của những khách du lịch có thiện chí và của những người Thái Lan sinh sống ở nước ngoài để giới thiệu Thái Lan cho bạn bè.

Một số gợi ý đối với Việt Nam

           Định hướng chính sách và nhận thức của toàn xã hội

Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Nắm bắt các xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới và hiểu rõ các nguồn lực phát triển cho ngành du lịch Việt Nam, Chính phủ đã đề ra Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn đến 2030. Rõ ràng, định hướng chính sách là đúng đắn thể hiện tầm nhìn vĩ mô trong trung hạn và dài hạn để đưa ngành du lịch phát triển tương xứng với tiềm năng và lợi thế vốn có. Nhưng để chiến lược thành công cần có nhiều giải pháp quan trọng như trong bản chiến lược đề ra; nhưng theo chúng tôi: một trong những giải pháp đầu tiên là định hướng chính sách và nhận thức của toàn xã hội bao gồm cả hệ thống kinh doanh du lịch và tất cả công dân Việt Nam. Du lịch Thái Lan phát triển được như thế bắt nguồn từ nhận thức đến hạnh động từ Nhà Vua, đến Chính phủ và người dân Thái. Việt Nam có định hướng chính sách tốt, có quy hoạch bài bản cho từng vùng miền về phát triển du lịch; có đầu tư thỏa đáng cho phát triển du lịch-điều đó rất cần và quan trọng; nhưng chưa đủ. Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, để ngành du lịch “cất cánh” và phát triển cần phải có sự quan tâm, phối giữa các ngành, các cấp từ nhận thức đến kinh doanh du lịch. Kinh doanh trong lĩnh vực du lịch phải văn minh lịch sử đối với du khách. Đã đến lúc cần phải tuyên truyền và “phải đưa ra những ý tưởng mới nhằm thay đổi hình ảnh du lịch Việt Nam trong con mắt bạn bè thế giới để hình thành nên một trải nghiệm du lịch thú vị hơn cho du khách”. Làm như thế nào để du khách quốc tế đến Việt Nam lần thứ nhất, họ phải đến lần thứ hai và lần thứ ba?

Theo Hiệp hội Du lịch Châu Á-Thái Bình Dương (PATA), có đến 40% du khách quay lại Singapore, 45% khách du lịch đến Thái Lan, còn lại Việt Nam, có đến hơn 80% du khách không quay trở lại. “Theo Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, hiện nay có 6 điều mà khách quốc tế đến Việt Nam “rất sợ” và nếu chúng ta giải quyết được những điều này, thì không cần tốn tiền mà khách du lịch vẫn lên”. Cụ thể 6 điều đó là: (i) Thứ nhất, tình trạng “làm giá, chặt chém”; (ii) Thứ hai, khách du lịch rất sợ giao thông Việt Nam; (iii) Thứ ba, tình trạng ăn xin, ăn cắp vặt; (iv) Thứ tư, du khách quốc tế đến Việt Nam rất sợ tình trạng vệ sinh an toàn thực phẩm…(v) Thứ năm, là sợ vấn đề vệ sinh môi trường; (vi) Nỗi sợ cuối cùng của khách du lịch nước ngoài là việc có những nơi, có người không thể hiện sự tôn trọng khách. Để tránh 6 điều này, nếu được nhận thức đúng và hạnh động đúng chắc chắn sẽ được loại trừ.

            Khuôn khổ luật pháp

Kinh doanh du lịch, đặc biệt du lịch quốc tế liên quan đến vấn đề quản lý con người; do vậy yếu tố luật pháp rất quan trọng, đóng vai trò nền tảng khuyến khích và tạo điều kiện cho du khách đến Việt Nam. Một trong những giải pháp thiết thực nhất là Chính phủ đã ban hành nghị quyết về việc miễn thị thực trong thời gian 5 năm đối với công dân các nước Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Ý khi nhập cảnh Việt Nam với thời hạn lưu trú không quá 15 ngày kể từ ngày nhập cảnh. Luật pháp chính sách theo hướng “mở cửa” khuyến khích tạo điều kiện cho du khách đến Việt Nam là rất cần thiết; song cũng cần rà xét khía cạnh luật pháp, cơ chế chính sách trong kinh doanh các loại hình du lịch để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho du khách. Mặt khác phải loại trừ hoàn toàn trường hợp kinh doanh “ép giá, làm giá” đối với du khách nước ngoài như báo chí đã nêu; luật pháp chính sách phải thúc đẩy hướng tới tạo ra môi trường kinh doanh du lịch lành mạnh và văn minh, thân thiện. Có như vậy, thị trường du lịch Việt Nam mới giữ chân được du khách. Chỉ số về môi trường bền vững cho kinh doanh du lịch, tuy Thái Lan không được xếp hạng cao (116/141quốc gia, với giá trị 3,46); nhưng vẫn trên Việt Nam 16 bậc, (132/141 với giá trị 3,16).

              Chính sách sản phẩm

Theo nhận xét của các chuyên gia kinh tế cũng như các du khách nước ngoài khi đến Việt Nam cho thấy: sản phẩm du lịch còn nghèo nàn, đơn giản, chưa phong phú và đa dạng. Sản phẩm du lịch cho du khách theo hai nghĩa: sản phẩm hữu hình và sản phẩm dịch vụ. Các hàng hóa đặc sản của các tỉnh thành, địa phương trong cả nước còn ít, khó có thể mua về để làm kỷ niệm. Các du khách nước ngoài thường ca ngợi hai sản phẩm đặc trưng của Việt Nam đó là, trang phụcÁo dài” và “nón lá”. Các sản phẩm dịch vụ vui chơi giải trí cũng chưa có gì độc đáo đặc sắc như Thái Lan. Thỏa mãn nhu cầu cho du khách khi đi du lịch rất quan trọng bao gồm cả vật chất và tinh thần. “Du khách đến Việt Nam thường chỉ để tham quan và tắm biển là chính. Đó là lý do khiến khách du lịch nước ngoài ngày càng giảm, ngành du lịch Việt Nam ngày càng thụt lùi và thua xa nhiều nước lân cận, kể cả Lào, Campuchia”. Để tạo ra những sản phẩm có tính cạnh tranh cho du khách: Thái Lan đã thuần hóa huấn luyện các động vật hung dữ như sư tử, cá sấu, rắn độc.v.v…trở nên thân thiện gần gũi với con người-những người Thái làm các công việc đó. Đồng thời đầu tư để bảo tồn xây dựng công viên về “bướm”; Singapore xây dựng công viên về “chim tự nhiên”; Ma-lai-xi-a phải đầu tư xây dựng những khu vui chơi giải trí sầm uất như cao nguyên “Genting”. Thiết nghĩ đã đến lúc Việt Nam cũng phải đầu tư, đặc biệt phải có chính sách khuyến khích thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào đâù tư các khu du lịch vui chơi giải trí có danh tiếng như Pattaya của Thái Lan, chủ yếu do cải tạo đầu tư mà có. Việt Nam cần phải có những sản phẩm du lịch đặc trưng độc đáo để tạo ấn tượng sâu sắc cho du khách được thưởng thức những giá trị vật chất và tinh thần phù hợp với lợi thế và tiềm năng vốn có của Việt Nam.

          Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng

Thực trạng cơ sở hạ tầng của Việt Nam đã có bước phát triển do chính sách và giải pháp đầu tư đúng đắn của Nhà nước trong những năm qua; nhưng so với yêu cầu cho phát triển du lịch trong bối cảnh mới thì còn nhiều hạn chế. Sở dĩ Thái Lan lượng khách quốc tế đến Thái Lan lớn như vậy, có nhiều lý do trong đó cơ sở hạ tầng của họ tốt hơn Việt Nam. Cơ sở hạ tầng bao gồm: cơ sở hạ tầng vận tải hàng không, chỉ số năng lực cạnh tranh của Thái Lan năm 2013 xếp thứ tự thứ 17/141 quốc gia - với giá trị 4,57; tương ứng Việt Nam 68/141 với giá trị 2,72; tức là hơn Việt Nam 51 bậc. Về mặt bằng và cơ sở hạ tầng cảng Thái Lan xếp thứ 71/141 quốc gia, Việt Nam xếp thứ 87 với giá trị là 3,14 (Thái Lan hơn Việt Nam 16 bậc). Về cơ sở hạ tầng dịch vụ du lịch, Thái Lan trong năm 2013, chỉ số cạnh tranh cũng được xếp thứ hạng cao: 21/141 với giá trị là 5,70; trong khi đó Việt Nam xếp hạng 105/141 với giá trị 2,95; cao hơn Việt Nam 84 bậc. Để cho ngành du lịch phát triển, trong những năm tới Việt Nam cần ưu tiên đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch, phù hợp với quy hoạch các vùng trọng điểm du lịch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

               Đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực 

Đối với nguồn nhân lực và thị trường lao động, chỉ số xếp hạng cạnh tranh của Thái Lan là 29/141 quốc gia, với giá trị là 4,98; Việt Nam cũng ở thứ hạng tương đối cao so với thế giới: 55/141 với giá trị 4,68 (năm 2015); nhưng so với Thái Lan Việt Nam vẫn thấp hơn 26 bậc. Chỉ số cạnh tranh sự sẵn sàng của công nghệ thông tin (ICT), Thái Lan xếp hạng 60/141 với giá trị 4,34; Việt Nam xếp hạng 97/141 với giá trị 3,37. Như vậy trong lĩnh vực sự sẵn sàng ICT của Thái Lan hơn hẳn Việt Nam 37 bậc, điều đó tác động rất mạnh đến mở rộng thị trường và tiếp cận khách hàng, tạo ra lợi thế trong quảng cáo, tiếp thị và thúc đẩy hoạt động, hiệu quả kinh doanh.

 Trong kế hoạch trung hạn và dài hạn, các Bộ ngành và các tỉnh thành trong cả nước ưu tiên đầu tư đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành du lịch, nhất là cho các vùng du lịch trọng điểm và hiện đại hóa công nghệ thông tin và truyền thông theo hướng “đi tắt đón đầu”.

Tóm lại, trong 14 trụ cột cấu thành chỉ số cạnh tranh tổng thể du lịch và lữ hành quốc tế 2015 về phát triển du lịch, Việt Nam còn kém Thái Lan nhiều bậc về các chỉ số: môi trường kinh doanh, y tế và vệ sinh môi trường, nguồn lực và thị trường lao động, sự sẵn sàng công nghệ thông tin và truyền thông, ưu tiên cho các tua du lịch, độ mở với quốc tế, môi trường bền vững, cơ sở hạ tầng vận tải hàng không, mặt bằng và cơ sở hạ tầng cảng, cơ sở hạ tầng dịch vụ du lịch, tài nguyên thiên nhiên (Thái Lan xếp thứ 16/141, với giá trị 4,47; Việt Nam xếp thứ 40/141 với giá trị 3,61) – 11 trụ cột hơn Việt Nam nhiều bậc. Việt Nam có 3 trụ cột hơn Thái Lan, bao gồm: an toàn và an ninh (Việt Nam xếp thứ 75/141, với giá trị 5,31; Thái Lan xếp thứ 132/141, với giá trị 3,75); như vậy Việt Nam đứng trên Thái Lan 57 bậc – đây là lợi thế nổi trỗi của Việt Nam; cạnh tranh về giá (Việt Nam xếp thứ 22/141, với giá trị 5,30; Thái Lan xếp thứ 36 với giá trị 5,06; Việt Nam hơn Thái Lan 14 bậc); và trụ cột thứ ba là tài nguyên văn hóa và kinh doanh du lịch Việt Nam trên Thái Lan 1 bậc, tương ứng là 33, 34/141 nhưng giá trị lại bằng nhau (2,79).

Kết luận

Với bề dày kinh nghiệm trong phát triển ngành du lịch, đặc biệt là du lịch quốc tế, Thái Lan đã đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, xứng đáng là điểm đến hấp dẫn của du khách quốc tế, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội của Thái Lan. Thành công trong phát triển du lịch của Thái Lan bắt nguồn từ những lợi thế động và có các chỉ số cạnh tranh rất cao. Việt Nam, tuy có một số lợi thế hơn hẳn Thái Lan và một số lợi thế tĩnh (phổ biến là lợi thế tuyệt đối) như vị trí địa lý thuận lợi, bờ biển dài và có nhiều bãi biển đẹp, các di sản tự nhiên nổi tiếng và các di sản lịch sử - văn hóa truyền thống đa dạng, độc đáo giàu bản sắc được UNESCO tôn vinh; nhưng chưa được phát huy và khai thác hiệu quả. Du lịch Việt Nam trong 20 năm qua tuy có phát triển nhưng các chỉ số cạnh tranh vẫn còn thấp so với Thái Lan nhiều bậc.

Những kinh nghiệm về phát triển du lịch của Thái Lan rất đáng để các quốc gia đi sau như Việt Nam nghiên cứu và học tập; thiết nghĩ là rất cần thiết và bổ ích đối với Việt Nam hiện nay./. 

PGS-TS Nguyễn Xuân Thiên-Thạc si Hà Minh Tuấn (Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội)

CÙNG CHUYÊN MỤC
Xem theo ngày
Mất ngủ và thuốc Đông y: Vì sao niềm tin bị lung lay?

Mất ngủ và thuốc Đông y: Vì sao niềm tin bị lung lay?

Trong nhiều thế kỷ, Đông y đã là một phần quan trọng trong y học và văn hóa của nhiều nước châu Á, đặc biệt là Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại ngày nay, niềm tin...
5 tháng trước
Tin nên đọc
Báo dân sinh
Báo dân sinh
Báo dân sinh