THỨ SÁU, NGÀY 22 THÁNG 11 NĂM 2024 11:46

“Không có gì quý hơn độc lập tự do” - chân lý của mọi thời đại

 

Ngày 28/1/1941, sau 30 năm ở nước ngoài tìm đường  cứu nước, cứu dân và chỉ đạo cách mạng trong nước, Nguyễn Ái Quốc đã về đến Tổ quốc. Chỉ sau một thời gian ngắn gấp rút chuẩn bị, từ ngày 10 đến 9/5/1941, tại Lán Khuổi Nặm, Người đã chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8, chỉ đạo chuyển hướng chiến lược cách mạng Việt Nam, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên trước. Tại đây, Người đã chỉ đạo thành lập Mặt trận Việt Minh - một trong những nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Ngay sau đó, ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt quốc dân đồng bào đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa  (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập.   

 

Bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp soạn thảo, là một văn kiện lịch sử - chính trị - pháp lý quan trọng đầu tiên khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến tư tưởng vĩ đại của Thô-mát Giép-phơ-xơn trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ, rằng: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Đồng thời, Người cũng nhắc đến tư tưởng của các nhà triết học Pháp thế kỷ thứ XVIII trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1791 của nước Pháp, rằng: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi". Dựa trên cơ sở pháp lý, đạo lý mà Pháp, Mỹ và cả thế giới không thể phủ nhận, Hồ Chí Minh đã suy rộng ra, nâng quyền con người lên thành quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”; đó là những lẽ phải không ai có thể chối cãi được. Bằng tư duy sáng tạo vượt thời đại, Người đã thay thế từ “tất cả mọi người” thành từ “tất cả các dân tộc”. Sự thay thế ngôn từ này là chính xác, bởi lẽ, nước mất độc lập thì tất yếu người dân mất tự do, hạnh phúc; chừng nào nước vẫn còn giặc ngoại xâm chiếm đóng thì chừng đó không có gì bảo đảm cho nhân quyền. Do đó, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để bảo đảm và phát huy quyền con người trong bất kỳ thời kỳ nào của cách mạng nước ta. Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo là sự thống nhất biện chứng của các thành tố làm nên một thể thống nhất: giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giai cấp và giải phóng con người.

 Người khẳng định ý chí đanh thép: "Một dân tộc gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập". Quan điểm đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc ghi nhận trong “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (International Convenant on Civil and Political Rights - ICCPR)” (1966), đánh dấu sự phát triển của pháp luật quốc tế, theo đó “tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa”.

 

Bác Hồ với các cháu thiếu nhi. Ảnh TL

 

  Kết thúc bản bản Tuyên ngôn độc lập, dân tộc Việt Nam trịnh trọng tuyên bố với thế giới: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". Đó còn chính là “lời thề giữ nước” - lời thề quyết giữ chính quyền cách mạng, bảo vệ độc lập, tự do của đất nước. Lời khẳng định đanh thép, thể hiện ý chí quyết tâm của toàn dân tộc, sẵn sàng chấp nhận những hy sinh, những mất mát để bảo vệ thành quả quý giá, lớn lao nhất: Quyền độc lập, tự do, quyền tồn tại của một quốc gia, dân dân tộc độc lập.

Lịch sử và nhân chứng đã khẳng định: Hồ Chí Minh luôn luôn gương cao ngọn cờ đấu tranh vì độc lập tự do, thống nhất cho dân tộc Việt Nam và các dân tộc khác trên thế giới. Người còn là hiện thân của khát vọng hòa bình chân chính: hòa bình cho dân tộc Việt Nam, hòa bình cho nhân loại, hòa bình cho hợp tác thân thiện giữ Việt Nam với các nước trên thế nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và tôn trọng chủ quyền quốc gia của mỗi nước. Khát vọng này của Người chẳng những thể hiện rõ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 -1954), mà còn thể hiện nổi bật trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kéo dài hơn 20 năm của dân tộc Việt Nam (1954 -1975). Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới, khát vọng “Không có gì quý hơn độc lập tự do”  là động lực to lớn cổ vũ toàn dân tộc, đồng tâm nhất trí, triệu người như một, năng động, sáng tạo, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh, bền vững, quyết tâm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là “Xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đất nước hơn 70 năm “đổi thịt, thay da”. Mùa thu Cách mạng đã và đang nâng đôi cánh đường dài cùng Đảng và nhân dân vượt qua mọi phong ba bão táp, chung tay xây dựng cơ đồ mới xán lạn tương lai.

NGUYỄN VĂN THANH

CÙNG CHUYÊN MỤC
Xem theo ngày
Tin nên đọc
Báo dân sinh
Báo dân sinh
Báo dân sinh