Độc đáo ngũ trò Viên Khê
- Văn hóa - Giải trí
- 07:55 - 25/01/2023
Dân ca, dân vũ Đông Anh (ngũ trò Đông Anh hay ngũ trò Viên Khê) là hệ thống các trò diễn xướng đi kèm các bài dân ca lưu hành chủ yếu ở thôn Viên Khê, phản ánh đời sống sinh hoạt và tâm tư, tình cảm của người nông dân xưa.
Gọi là ngũ trò vì lúc đầu trò diễn ở làng Viên Khê có 5 trò nhưng về sau do tiếp biến văn hóa có đến 12 trò: Múa đèn, Tiên Cuội (hay Tiên phường), Tô Vũ, Trống Mõ, Thiếp, Vằn vương (hay trò Hùm), Thủy (hay Thủy phường), Leo dây, Xiêm Thành (hay Chiêm Thành/Sim Thành), Hà Lan (hay Hoa Lang), Tú Huần (hay Lục Hồn Nhung), Ngô quốc. Ngoài ra còn một số trò như: Đại Thánh, Nữ quan...
Tương truyền rằng, mgười con trai cả của Hoàng đế (Thái thú) Lê Ngọc, tên Lãng Đại Vương là thủy tổ của các trò chơi, trò diễn. Lãng Đại Vương về tận thôn, xóm để chung vui với nhân dân, từ đó các điệu múa được truyền dạy và phổ biến cho mọi người (thế kỷ V - VII).
Theo các cụ cao niên trong làng kể lại, những điệu múa, điệu hát được lưu truyền đến ngày nay có từ thế kỷ XI thời Lý, nhưng chưa được dàn dựng thành màn trình diễn, mà người dân chỉ hát vào những lúc lao động mệt nhọc trên đồng hay những ngày xuân đi trẩy hội. Cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV, ở tổng Thạch Khê có ông Nguyễn Mộng Tuân đỗ Tiến sĩ vào cuối triều Trần. Trong một lần về thăm quê, ông thấy có những điệu múa hát rất hay, nên đã cùng bà con sáng tác ra 12 trò múa hát. Từ đó trở đi, vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu trong chu kỳ giáp hạt, các làng của tổng Tuân Hóa, Thạch Khê, Quảng Chiếu (nay thuộc các xã Đông Anh, Đông Thịnh, Đông Khê, huyện Đông Sơn) đều tổ chức trò diễn và chấm điểm để thi tại lễ hội Nghè Sâm làng Viên Khê với quy mô lớn, thu hút đông đảo người dân tham dự với định kỳ 3 năm/lần vào các năm; Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Nội dung các trò diễn là lời hát đi cùng vũ điệu để hình thành một làn điệu dân ca riêng và đặc sắc của cư dân vùng châu thổ sông Mã. Đặc biệt hơn, so với các hình thức diễn xướng dân gian khác thì dân ca, dân vũ Đông Anh đã có kịch bản và tích truyện khá phong phú về nội dung.
Trong các trò diễn, trò Múa Đèn hội tụ tương đối đầy đủ các giá trị tinh túy của dân ca, dân vũ Đông Anh. Bởi, Đông Anh là nơi làm lúa nước, để tạo tinh thần thoải mái, hăng say lao động sản xuất và lưu truyền kinh nghiệm, người dân đã sáng tạo ra những lời ca, tiếng hát gắn liền với từng hoạt động sản xuất nông nghiệp, từ thời điểm gieo mạ đến vụ gặt rồi thời điểm nông nhàn. Hay kinh nghiệm sản xuất “tay cầm nắm trấu mà tung ra, trấu nát ra tro, thịt nát ra giò, đậu nát ra tương” và trồng trọt hiệu quả theo mùa “thấp thoáng bóng ngọn đèn quay, đồng sâu cấy lúa, đồng cạn làm màu”. Ngọn đèn trong trò diễn là vật gắn liền với cư dân nông nghiệp xưa, được người dân đưa vào cùng các điệu múa làm biểu tượng cho sự chuyển dịch của thời gian trong năm, biểu tượng của ánh sáng mang lại sự sinh sôi, nảy nở cho vạn vật và ẩn chứa khát vọng về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc của con người. Những cô gái lứa tuổi mười tám, đôi mươi, chưa chồng, trên đầu đội đèn cùng những động tác cơ thể múa hát uyển chuyển song không được để đèn đổ hay rơi xuống. Vì thế yêu cầu kỹ thuật là rất khó. Có lẽ vì cái hay, cái đẹp, cái giản dị mà ý nghĩa nên trò Múa Đèn được trình diễn nhiều và được lưu truyền phổ biến qua các thế hệ.
Không chỉ phản ánh quá trình, kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp mà những ước nguyện và khao khát của người dân như, cầu mưa, cầu nắng, chống chọi với thiên nhiên, thiên tai, dịch bệnh, thú dữ nhằm bảo vệ sản xuất nông nghiệp và duy trì sự sinh sôi, nảy nở của con người, động vật cũng được người dân sáng tạo thể hiện sinh động, chân thực, gần gũi với đời sống qua các trò: Vằn Vương, Trò Thủy, Trống Mõ, Tiên Cuội...
Trải qua thời gian, hệ thống trò diễn bị mai một, nhất là từ cuối kháng chiến chống thực dân Pháp đến trước năm 1975 chiến tranh xảy ra ác liệt, đời sống khó khăn, người dân các làng của xã Đông Anh không còn thời gian để tổ chức lễ hội và trình diễn các làn điệu dân ca, dân vũ của quê hương mình. Từ sau năm 1975, đất nước thống nhất, đời sống vật chất, tinh thần của người dân dần được cải thiện, nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tinh thần của người dân ở các làng, xã được đặt ra. Vấn đề bảo tồn, gìn giữ các giá trị tinh thần của cha ông để lại đã trở thành nội dung quan trọng trong phát triển kinh tế địa phương. Đến năm 2000, Viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam và ngành VH-TT&DL Thanh Hóa đã sưu tầm, nghiên cứu, khôi phục được 11 trò diễn. Năm 2014, tỉnh Thanh Hóa đã có Quyết định phê duyệt kế hoạch lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu của tỉnh, trong đó có trò diễn dân ca, dân vũ Đông Anh được đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Năm 2017, ngũ trò Viên Khê được Bộ VH-TT&DL công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Tháng 9/2019, tại Lễ công bố Quyết định, đón Bằng công nhận huyện Đông Sơn đạt chuẩn nông thôn mới, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Thứ trưởng Bộ VH-TT&DL Trịnh Thị Thủy đã trao Bằng của Bộ trưởng Bộ VH-TT&DL công nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia ngũ trò Viên Khê cho huyện Đông Sơn.
Ông Nguyễn Đăng Trường, Phó Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Đông Sơn cho biết: Để gìn giữ, phát huy giá trị Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia ngũ trò Viên Khê, huyện Đông Sơn đã thành lập các câu lạc bộ, mời các nghệ nhân truyền dạy cho các thành viên trong câu lạc bộ không chỉ tại xã Đông Anh mà còn ở các địa phương trong huyện. Vào các dịp lễ lớn của tỉnh, các câu lạc bộ lựa chọn những thành viên xuất sắc luyện tập, tham gia trình diễn, quảng bá hình ảnh. Bên cạnh đó, huyện Đông Sơn cũng đưa vào tổ chức các hoạt động ngoại khóa đối với các em học sinh để các em làm quen, tham gia trình diễn tại các phong trào của trường, địa phương. Từ đó giúp các em thêm yêu thích, gìn giữ và phát huy giá trị di sản cha ông để lại…”, ông Trường nói.