THỨ SÁU, NGÀY 22 THÁNG 11 NĂM 2024 08:13

Dấu hiệu nhận biết bệnh trầm cảm của trẻ em theo từng độ tuổi

Nguyên nhân chính gây ra bệnh trầm cảm ở trẻ em

Rạn nứt trong mối quan hệ với gia đình: Lúc này trẻ bị hụt hẫng và có xu hướng nghĩ là do lỗi của mình. Chẳng hạn như cha mẹ ly dị trẻ sẽ nghĩ là vì mình mà cha mẹ ly dị, “Tại sao mẹ (cha) lại sống với em mà không sống với mình?”, “Mẹ vì mình nên phải ly dị với cha!”. 

Bên cạnh đó, khi cha mẹ ly thân trẻ sẽ sống với một trong hai người vì thế thiếu vắng tình cảm của gia đình, dẫn đến hụt hẫng tinh thần ở trẻ. 

Trẻ bị bạn bè bắt nạt: Tuy nhiên không thể nói với ai, cha mẹ cũng không quam tâm hỏi han khiến cho trẻ có cảm giác bị bỏ rơi và thường hay sợ đám đông.

Dấu hiệu nhận biết bệnh trầm cảm của trẻ em theo từng độ tuổi - Ảnh 1.

Ảnh minh hoạ. Nguồn internet.

Áp lực học tập: Cha mẹ luôn muốn con học giỏi, thông minh vì thế đặt cho bé mục tiêu học tập quá cao, bắt trẻ học nhiều, khi không đạt được kết quả tốt như điểm kém thì cha mẹ tỏ thái độ không hài lòng, có khi phạt trẻ.

Áp lực còn ở trong trường học, chẳng hạn giáo viên yêu cầu bé tả cây cau; nhưng trong khi bé ở thành phố nên không thể biết cây cau thế nào để làm bài, từ đó dễ dẫn đến căng thẳng từ việc học. Thất bại trong học tập hay thi cử mặc dù trước đó trẻ học rất giỏi.

Thay đổi môi trường sống đột ngột: Bố mẹ chuyển nhà hay chuyển trường tuy nhiên không cho bé biết. Trong trường hợp này nhiều bé cho rằng do mình học dở không bằng chị (em) bạn bè nên bị chuyển trường. Đồng thời, với việc lạ chỗ ở trẻ rất sợ khi ngủ.

Đa phần cha mẹ tự quyết định và áp đặt cho trẻ, không hỏi xem thái độ, ý kiến là bé có đồng ý, có muốn đi hay không. Bé cảm thấy mình không có quyền quyết định, ba mẹ không tôn trọng mình.

Tiền căn bệnh của gia đình: Cha hay mẹ hoặc trong gia đình có người từng bị trầm cảm, đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho trẻ dễ bị ảnh hưởng theo.

Dấu hiệu nhận biết bệnh trầm cảm của trẻ em theo từng độ tuổi - Ảnh 2.

Ảnh minh hoạ. Nguồn internet.

Các dấu hiệu, biểu hiện và triệu chứng của bệnh trầm cảm trẻ em

Buồn rầu không đồng nghĩa với trầm cảm. Cũng là điều bình thường nếu trẻ đau khổ khi bị mất mát hoặc buồn bã vì bị bạn bè chơi xấu, chuyện này thường chỉ kéo dài vài ngày. Tuy nhiên nếu tình trạng rầu rĩ kéo dài vài tuần hoặc có vẻ ảnh hưởng tới các hoạt động thường kỳ và quan hệ của trẻ thì cần chú ý và nghĩ tới trầm cảm.

Trầm cảm không phải là sự thay đổi nhất thời của cảm xúc, đó là cảm giác vô vọng kéo dài, là sự thiếu hụt năng lượng và nhiệt tình kéo trường diễn trong vài tuần, vài tháng, thậm chí là vài năm.

Một trong những biểu hiện quan trọng của trầm cảm đó là sự bực bội mạn tính. Các biểu hiện trầm cảm ở trẻ em có một số điểm khác biệt so với triệu chứng trầm cảm nói chung. 

Trẻ bị trầm cảm có thể gặp khó khăn trong quan hệ với bạn bè và gia đình, hoặc bị thay đổi cảm xúc quá mức. Chúng thường tỏ ra lãnh đạm, không tập trung, thiếu sức sống, thiếu nhiệt huyết và ít khi vui vẻ. Đôi khi trẻ tỏ ra cáu bẳn, hờn dỗi, thậm chí là hung hăng. 

Khi đủ lớn chúng thường tự cho mình là đồ ngốc, là người vô dụng và vô phương cứu chữa… Trẻ có thể bận rộn với các ý tưởng về chết chóc và thậm chí còn tìm cách tự tử. 

Trẻ vị thành niên bị trầm cảm có thể lạm dụng rượu hay ma túy, dùng những thứ này để cảm thấy dễ chịu hơn.

Dấu hiệu nhận biết bệnh trầm cảm của trẻ em theo từng độ tuổi - Ảnh 3.

Ảnh minh hoạ. Nguồn internet.

Các dấu hiệu thường gặp của trầm cảm ở trẻ em:

Buồn rầu, khóc lóc, tuyệt vọng trường diễn. Cô lập, thu mình khỏi các hoạt động từng được ưa chuộng. Khó chịu, bực bội, giận dữ ngày càng gia tăng. Uể oải, mệt mỏi mãn tính Thường xuyên bỏ học hoặc học kém. Thường xuyên phàn nàn về sức khỏe như đau đầu, đau dạ dày. Khó khăn trong xây dựng các mối quan hệ xã hội. Không nhiệt tình, năng nổ. Quá nhạy cảm khi bị từ chối hay thất bại. Không quyết đoán, thiếu khả năng tập trung, hay quên. Nói về chuyện bỏ nhà hay đã tìm cách bỏ nhà. Tự ti, mặc cảm tội lỗi quá mức. Thay đổi lớn trong thói quen ăn uống, ngủ nghỉ (ví dụ sụt cân mạnh, mất ngủ). Thường xuyên nghĩ về cái chết hay có ý định tự tử, tự hủy hoại cơ thể.

Biểu hiện của bệnh trầm cảm khác nhau tùy theo lứa tuổi:

Biểu hiện trầm cảm ở trẻ sơ sinh đến 3 tuổi:

Kém ăn, chậm lớn không do nguyên nhân thể lực. Lãnh đạm, không thích chơi đùa, có những cơn cáu giận, ít thể hiện các cảm xúc tích cực nói chung.

Biểu hiện trầm cảm ở trẻ 3-5 tuổi:

Lóng ngóng, hay gặp tai nạn. Ám ảnh sợ hay có những nỗi sợ hãi quá mức. Chậm trễ hoặc thoái lui trong các mốc phát triển. Xin lỗi quá mức vì những sai phạm nhỏ như đánh đổ thức ăn, quên dọn đồ chơi...

Biểu hiện trầm cảm ở trẻ 6-8 tuổi:

Có những than phiền rất mơ hồ về thể lực. Hành vi hung bạo. Bám chặt bố mẹ, tránh xa người lạ, ngại đối đầu với thách thức.

Biểu hiện trầm cảm ở trẻ 9-12 tuổi:

Nói về chuyện chết chóc. Lo ngại quá mức về việc học ở trường. Mất ngủ, tự buộc tội mình vì đã khiến cha mẹ và thầy cô thất vọng.

Việc trẻ thể hiện một vài hay thậm chí tất cả biểu hiện nói trên không có nghĩa là trẻ mắc chứng rối loạn trầm cảm. Tuy nhiên, khi có các biểu hiện này, đặc biệt là ở mức độ nặng và/hoặc kéo dài một tháng trở lên, phụ huynh cần đưa trẻ đi khám chuyên gia tâm thần nhi khoa. Chẩn đoán và điều trị sớm giúp rút ngắn các đợt trầm cảm, tránh xảy ra các đợt mới và ngăn ngừa việc trẻ học kém, tự gây tổn thương hoặc tự tử.

Các biểu hiện lâm sàng trầm cảm ở trẻ em và vị thành niên

Với những đặc thù phát triển ở lứa tuổi vị thành niên, nên các biểu hiện trầm cảm ở lứa tuổi này cũng có những đặc điểm khác so với trầm cảm ở người lớn, đó là:

– Thường thể hiện bằng triệu chứng cơ thể mà đau là triệu chứng hay được kể đến. Thường là đau đầu, đau bụng, đau ngực, ngột ngạt kèm cảm giác lo buồn chán nản…Chính vì các biểu hiện triệu chứng cơ thể nổi bật nên đối với các thể trầm cảm cảm nhẹ, có nhiều tác giả gọi là trầm cảm che đậy bởi triệu chứng cơ thể, các thể này thường không được phát hiện chẩn đoán sớm và tất nhiên không được điều trị. Đa phần các trường hợp này được bố mẹ đưa đến các cơ sở nội nhi khám bệnh với các chẩn đoán và điều trị các bệnh lý cơ thể về tim mạch, tiêu hoá, thần kinh…, và được điều trị bằng các thuốc chuyên khoa đặc hiệu nhưng không thấy kết quả, hoặc không thấy có các bằng chứng tổn thương thực thể rõ ràng.

– Khí sắc trầm: Trẻ có cảm giác buồn chán nhẹ không rõ rệt, không giải thích được nguyên cớ, hay cáu kỉnh. Giảm hứng thú trong học tập, công việc được giao phó, và cả trong các sinh hoạt nhóm hay đoàn thể.

– Tư duy: Khó tập trung chú ý, khó tiếp thu trong học tập, kết quả học giảm sút, quá trình này có thể diễn ra từ từ hoặc nhanh chóng, đây cũng là lý do quan trọng mà các bậc cha mẹ đưa trẻ đến các cơ sở khám bệnh hoặc tư vấn tâm lý. Một số khác lại cảm thấy hưng phấn, thấy khả năng của mình vượt trội, trẻ chăm chỉ học tập, kết quả ban đầu tốt nhưng sau đó kết quả lại giảm sút một cách rõ rệt.

– Các hoạt động xã hội: Trẻ thu mình cô lập không muốn giao tiếp hay tham gia các hoạt động đoàn thể, phàn nàn không có bạn thân hoặc khó chia sẻ với bạn. Trẻ thờ ơ, ít quan tâm đến các hoạt động diễn ra xung quanh, với những người xung quanh, có thể ngay cả với những người thân thiết nhất. Các biểu hiện thay đổi ở các mức độ khác nhau, từ kém nhiệt tình đến tình trạng thờ ơ. Một số khác lại gia nhập nhóm bạn để chia sẻ, đồng cảm. Một số lao vào học tập nhưng một số lại từ chối làm mọi việc.

– Rối loạn ăn: Thường nổi bật là cảm giác chán ăn, không có hứng thú trong ăn uống, mất cảm giác ngon miệng, hậu quả là trẻ bị giảm cân. Tuy nhiên có thể ăn nhiều hơn bình thường hay ăn vô độ dẫn đến tăng cân. Tăng hay giảm cân là triệu chứng cần lưu ý ở vị thành niên, bởi đây là giai đoạn trẻ phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng về thể chất, nên triệu chứng giảm cân không rõ ràng mà có khi biểu hiện tình trạng chậm hay ngừng tăng cân so với lứa tuổi.

– Rối loạn giấc ngủ, trẻ ngủ nhiều hơn bình thường hoặc ngủ ít, trong rất nhiều trường hợp trẻ thường xuyên có ác mộng. Có thể biểu hiện tình trạng trẻ nằm nhiều nhưng lại mất ngủ, trẻ thường phàn nàn khó vào giấc ngủ hay chất lượng giấc ngủ giảm sút, hay bị thức giấc lúc nửa đêm, dậy sớm…

– Đi kèm với các triệu chứng về cảm xúc, cơ thể là các biểu hiện rối loạn hành vi, như quậy phá, hành vi chống đối xã hội, chống đối bố mẹ, trốn học, trộm cắp, lập băng đảng hay nhóm bạn xấu và sử dụng các chất gây nghiện. Rối loạn hành vi ở thanh thiếu niên ngày càng có xu hướng tăng cao, thu hút sự chú ý của cộng đồng xã hội, trong số này tỷ lệ có rối loạn trầm cảm cao.

– Tự sát cũng là một triệu chứng rất quan trọng và nghiêm trọng trong bệnh trầm cảm tuổi vị thành niên, ở các mức độ khác nhau từ ý tưởng đến có hành vi tự sát. Trẻ thực hiện hành vi tự sát bằng các hình thức khác nhau như uống thuốc, đập đầu vào tường, thắt cổ, cắt mạch máu,… và thường xẩy ra ở bệnh nhân có mức độ trầm cảm nặng.

BP (tổng hợp)

CÙNG CHUYÊN MỤC
Xem theo ngày
Tin nên đọc
Báo dân sinh
Báo dân sinh
Báo dân sinh