Chuyện về nữ cựu tù Côn Đảo
- Dược liệu
- 16:08 - 26/04/2016
Một thời hoa lửa
Căn nhà của bà Mười Đào khiêm nhường nằm cạnh chung cư cao tầng. Đối diện với bộ bàn ghế salon cũ là cái tủ kiếng nhỏ - nơi bà Đào để hàng trăm bằng khen, giấy khen, vật lưu niệm. Bà Đào cầm hai tập hồ sơ từ tủ kiếng đưa cho tôi, nói: “Cuộc đời dì là cuốn tài liệu này. Trong đó là tất cả cuộc sống và những ngày chiến đấu kiên cường của người cộng sản”. Nước mắt bà Đào rưng rưng nhìn vào tấm ảnh đen trắng, đó là ngày bà từ Côn Đảo trở về - ngày đất nước thống nhất 41 năm trước.
Bà Mười Đào ngày nào cũng xem báo chí nắm thông tin về Trường Sa, Hoàng Sa.
Giữa năm 1966 của thế kỷ trước, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta đang ở giai đoạn quyết liệt nhất. Cũng như bao thanh niên yêu nước thời đó, bà Đào là một nữ cộng sản khét tiếng với sức “lỳ” chịu cực hình tra tấn của quân thù và sự kiên cường gan dạ. Mùa thu năm 1966, khi đó bà Đào hoạt động bí mật trong Đội biệt động Sài Gòn, có nhiệm vụ truyền tin bí mật từ nội đô sang vùng ngoại tuyến; móc nối liên lạc từ sở chỉ huy tiền phương với vùng đô thành Sài Gòn; nắm tình hình nội bộ ngụy quyền. Trong một lần đưa thư mật từ vùng ngoại tuyến về đô thành, bà bị địch bắt. Chúng đưa bà lên xe taxi giải về đồn tra tấn. Lúc ngồi trên xe, bà hỏi hai tên lính ngụy: “Tui có làm gì đâu mà các ông bắt tui”? “Có người nói bà ăn cắp vải”- bọn chúng trả lời. Lúc đó, tui không sợ nó đánh, mà lo nhất là làm sao thủ tiêu được lá thư mật đang giấu trong áo ngực. Tui giả vờ gãi đầu gãi tai cho lá thư rơi ra ngoài. Lợi dụng lúc hai tên lính ngụy không chú ý, tui dùng chân đạp lên lá thư rồi miết nó vào gầm ghế taxi. Khi chúng đưa tui vào điều tra xét hỏi, một tên hỏi tui: “Mày muốn gì? Thư đâu, đưa ra ngay”. Tôi trả lời: “Các ông hỏi thư gì? Tui đi chợ về nấu ăn cho gia đình tui chứ thư từ gì chớ. Sau đó chúng lột hết quần áo tui nhưng không tìm thấy lá thư mật. Một tên lệnh tìm lại xe taxi đã chở tui. Chúng báo động, lùng sục các tuyến đường phố Sài Gòn tìm xe taxi ấy. Chiếc xe đó đã chạy xa ra ngoại thành”. Không khai thác gì được từ bà Đào, chúng giam vào Khám Chí Hòa. Trong suốt thời gian này, bà chịu nhiều cực hình tra tấn tàn khốc của ngụy, nhưng một mực bà không hé răng. Trong tù, bà vẫn bí mật hoạt động với lực lượng cách mạng bên ngoài.
Cuối năm 1968, tòa án chế độ ngụy quyền Sài Gòn đem bà ra xét xử tại bến Bạch Đằng để trả tự do cho bà vì không đủ chứng cứ buộc tội. Trước khi xử, chúng yêu cầu bà chào cờ Mỹ. Bà nói: “Tôi yêu Tổ quốc tôi, tôi chỉ chào cờ Tổ quốc tôi, đó là cờ đỏ sao vàng Việt Nam”. Như để lấy cớ buộc tội lần nữa, chúng bắt bà và đem về nhà tù Thủ Đức, sau đó đem ra Côn Đảo giam cầm. Từ cuối năm 1968 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, bà bị Mỹ đưa đi Côn Đảo tù đày 3 lần. Bà không còn nhớ lính Mỹ tra tấn bao nhiêu lần, song những lần chỉ huy đồng đội trong tù đấu tranh tuyệt thực, chống lại chế độ hà khắc nhà tù thì không bao giờ bà quên. Ngày 10/5/1975, trong niềm vui ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, bà Đào cùng nhiều đồng đội từ Côn Đảo trở về. Đứng trên mũi tàu không số nhìn về đất liền, bà rơi nước mắt. “Tất cả cựu tù trở về đất liền trong Đoàn chiến thắng 2 ngày ấy đều khóc vì sung sướng”, bà hồi tưởng lại.
Bà Mười Đào trao quà cho thân nhân liệt sĩ Trường Sa, DK1 tại nhà riêng của bà.
Bà Đào nhìn vào cuốn album lưu giữ nhiều hình ảnh bà lúc thời con gái. Dừng lại trước tấm ảnh ngày bà mới từ Côn Đảo trở về, bà nói: “Tấm ảnh này tui chụp ngày 30/4/1975. Đời làm cách mạng không gì đẹp bằng cống hiến, hi sinh cho Tổ quốc”.
Bán biệt thự để... làm từ thiện
Sau gần 40 năm làm cách mạng, năm 1990 bà Đào trở về với cuộc sống đời thường. Thay vì nghỉ ngơi bên con cháu, thì bà lại bắt đầu một hành trình mới. Đó là cuộc hành trình đi tìm những mảnh đời bất hạnh, mồ côi; những người bần hàn nghèo khó để cứu giúp. Bà cùng những người bạn đi làm từ thiện, vận động các mạnh thường quân tài trợ, và bỏ tiền túi ra mua lương thực, đồ dùng cá nhân, thuê xe hành quân đến với những người nghèo khổ. Hẳn nhiều người sẽ “sốc” khi nghe chuyện một bà già bán hẳn căn biệt thự lớn sang trọng của mình với giá 146 cây vàng để mua 14 tấn gạo gửi ra miền Trung giúp đồng bào bị lũ lụt trong trận lụt lịch sử năm 1999.
Bà Đào kể: “17 năm trước, cơn lũ lịch sử tràn vào miền Trung bắt đầu vào đêm 1/11/1999 suốt một tuần lễ. Cả miền Trung (từ Quảng Trị đến Bình Định) chìm trong biển nước, ác liệt nhất là Thừa Thiên - Huế và Quảng Nam. Trận lũ lụt lịch sử làm ngập trắng 10 tỉnh, thành miền Trung, 595 người chết, 41.846 ngôi nhà, 570 ngôi trường bị sập và trôi. Lúc đó bà Mười đang ở căn biệt thự mà Nhà nước xây cho bà ở số 78 Đặng Văn Ngữ, quận Phú Nhuận. Trăn trở trước nỗi đau nhà bị lũ cuốn trôi, cảnh đói khát của người dân miền Trung, bà đã bàn với con gái bán căn biệt thự ấy mua gạo đi cứu trợ. Nghe tin bà Mười bán nhà mua gạo cứu trợ đồng bào miền Trung nhiều người sửng sốt. Có người đến nói thẳng với bà: “Bà khùng hay sao. Bán nhà lấy chi ở. Hỗ trợ cũng vừa thôi chớ?”.Bàbảo:“Tui không khùng. Nhà của Đảng, nhà nước cấp cho tôi, giờ đồng bào mình đói khát, lũ lụt, tui bán giúp đồng bào cũng là trả lại cho Đảng, cho dân”.
Những quân nhân có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, nhận quà nhân ái của bà Mười Đào.
Căn biệt thự sang trọng, bà bán được 146 cây vàng mua 14 tấn gạo. Bà nhờ Mặt trận Tổ quốc phường thuê xe, chở gạo cho đồng bào tỉnh Thừa Thiên - Huế 2 tấn, Quảng Nam 2 tấn, Quảng Ngãi 2 tấn, Bình Định 2 tấn, 21 mẹ Việt Nam Anh hùng của miền Trung cũng được bà tặng mỗi người 500.000 đồng và 50kg gạo. Đồng đội cũ, bà tặng mỗi người một chỉ vàng. “Lúc đó nhiều người bảo, sao bà không hỗ trợ cho Phú Yên, quê hương của bà? Tôi bảo có chớ. Phú Yên bị lũ lụt ít thì hỗ trợ ít thôi”, bà chia sẻ.
Ngày vĩnh biệt căn biệt thự đã gắn bó với bà bao kỷ niệm vui buồn, thăng trầm trong cuộc sống, bà ngậm ngùi rơi nước mắt. Nhưng nỗi đau mất nhà, đói khát của đồng bào miền Trung luôn thúc giục trái tim bà. Số tiền còn lại, bà mua căn nhà nhỏ cùng chung ngõ ra vào ở số 7/11 Lê Tự Tài, phường 4, quận Phú Nhuận hiện nay. Trong căn nhà nhỏ này mọi vật dụng bình dị như tấm lòng người cộng sản.
Khu bếp nấu chật hẹp, bộ bàn ghế cũ kỹ vượt quá tuổi thọ thời gian, phòng tắm nhiều vết nứt chưa một lần sơn sửa lại. Bà bảo: “Ở TP Hồ Chí Minh còn rất nhiều gia đình điều kiện sinh hoạt còn chật chội, chỗ ở còn khó khăn hơn mình. Thời lửa đạn, ở dưới hầm hào chật chội, bây giờ được thế này là khá lắm rồi. Nhiều người nghèo khổ lắm, giúp họ bớt khó khăn là tui vui. Còn sống ngày nào còn làm việc nghĩa”.
Vọng lòng một nén tâm nhang
Bà Đào lật đi lật lại tờ báo Tuổi Trẻ có đăng bài “Xây đài tưởng niệm 64 anh hùng Gạc Ma”. Hằng ngày, bà vẫn đọc lại rồi suy ngẫm làm gì cho Trường Sa, cho thân nhân gia đình liệt sĩ để họ vơi đi mất mát. Mắt bà rưng rưng nhìn vào tấm ảnh thả hoa tưởng niệm liệt sĩ Gạc Ma. “Tội lắm con à. 64 liệt sĩ Gạc Ma đã hi sinh, đến bây giờ xương cốt vẫn nằm lạnh cóng dưới biển. Đó là nỗi đau của gia đình liệt sĩ. Ngày nào dì cũng xem ti vi. Mỗi lần nghe tin ngư dân của mình bị tàu lạ đâm chìm, hay một sự việc gì đó liên quan đến Trường Sa, DK1 là lòng dì thắt lại. Dì già rồi, không đến Trường Sa được, nhưng dì muốn góp một chút công sức cho các thân nhân liệt sĩ”, bà Đào tâm sự. Trong lá thư bà Đào gửi Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Đặng Ngọc Tùng, có đoạn: “Tui chỉ có tấm lòng, xin giúp thân nhân liệt sĩ Gạc Ma mỗi phần quà 2 triệu đồng. Ngày khánh thành tượng đài Gạc Ma, tui sẽ đến đó trao trực tiếp cho thân nhân liệt sĩ. Số còn lại, sẽ nhờ Báo Lao Động trao giúp tui”. 64 liệt sĩ hi sinh trong trận chiến Gạc Ma là 64 nỗi đau khác nhau mà bà Đào ngày nào cũng đau đáu về họ. Ước nguyện cuối đời của bà là được thắp lên tượng đài Gạc Ma một nén tâm nhang để tỏ lòng tri ân những chiến sĩ Hải quân đã ngã xuống trong trận chiến Gạc Ma 28 năm trước. “Tui chưa bao giờ coi giúp thân nhân liệt sĩ Gạc Ma là từ thiện, mà đây là nghĩa vụ của tui- một cựu tù chính trị Côn Đảo”, bà chia sẻ.
Bà Mười cầm 64 chiếc phong bì, trong mỗi phong bì có 2 triệu đồng ghi dòng chữ “tri ân gia đình liệt sĩ Gạc Ma”.