THỨ SÁU, NGÀY 22 THÁNG 11 NĂM 2024 09:35

Ai về làng Mái...

Không khí sầm uất vào cữ một chạp các thuyền từ xứ Đông xứ Đoài ghé bến “ăn tranh”. Người làm tranh trước ở ngoài đê vào mùa vụ làm tranh cũng một sương hai nắng tất bật khuya sớm.

Thôi thì rậm rịch tiếng chày giã điệp, chỗ nọ dỡ ván in tranh cọ rửa, lau chùi sạch sẽ.

Khói đốt tranh tre ẩn hiện la đà trên các ngọn cây. Mùa lá tre rụng, người làng tranh phải đi quét nhặt từng lá, tươi quá không được mà khô quá cũng hỏng, khi đốt phải đúng hướng gió, lửa đến đâu vẩy nước đến đấy: có như thế màu đen khi in mới mịn, mới đằm.

Giấy dùng in tranh là giấy dó Đống Cao bền dai, mịn mặt. Bồi điệp phải chọn nắng hanh, nắng nhưng không có gió, gió thổi bay tờ điệp úp mặt xuống là công cốc.Ai về làng Mái...

Ván khắc in tranh là gỗ mít, gỗ vàng tâm, khi in theo từng bản khắc bảo đảm màu nhuần nhụy, nét khắc rõ trên vân điệp càng ngắm càng ưa nhìn. Làng Đông Hồ ruộng đất ít, từ cụ già đến con trẻ đều mê và nghiện trà đặc.

Thuốc lào Tiên Lãng, chè móc câu Thái Nguyên là thứ không thể thiếu được trong các đêm làm tranh.

Tiếng rít thuốc lào sòng sọc nghe vui tai, nước trà đặc sánh làm cho đầu óc minh mẫn, tỉnh táo khiến cho nét vẽ, màu vẽ thêm sống động, có hồn, có vía.Thực trạng của làng tranh bây giờ ra sao?

Có dạo Xunhasaba (Hà Nội) nhận đặt và xuất khẩu với số lượng tranh lớn cũng làm nức lòng người dân nơi đây dù giá thành tranh không đắt lắm. Nhu cầu vài năm gần đây thay đổi.

Người làng tranh bây giờ nảy sinh tâm lý ai đặt thì làm, nhiều khi với số lượng tranh quá ít cũng không muốn làm. Các nghệ nhân như cụ Thức, ông Sâm, ông Láng... có tay nghề cao và kinh nghiệm dần dần khuất núi cả.

 Thời buổi cơ chế thị trường cả làng đổ xô vào làm hàng mã, cũng vốn là “mặt hàng” truyền thống trước đây. Thôi thì đủ loại: hoa tai, đồng hồ, nhà táng, ti vi, hon đa  “cúp giấy”.

Rẻ cũng mươi đồng, đắt cũng đến hàng trăm nghìn... tùy theo nhu cầu người đặt mua. Làng thường giao cho người bán buôn đi Hà Nội. Còn tranh Đông Hồ một thời nổi tiếng của dòng tranh xứ Bắc, kỹ thuật công phu, giấy đắt, đủ các loại màu lấy từ chất liệu tự nhiên, tiêu thụ lại khó.

Người sành tranh lắm bây giờ mới dám chơi tranh Đông Hồ,  chứ không như ngày nào tranh bày bán trên mẹt quê khắp các chợ Phủ Thuận và ở nhiều nơi khác.

Ai về làng Mái...

Dạo qua các hè phố cứ thấy tranh Tàu, tranh Thái bày treo la liệt trên các quầy sách báo và văn hóa phẩm như lấn át người xem, người mua. Hồi đó chúng tôi có dịp trở lại làng Đông Hồ thăm anh Trần Nhật Tấn.

Quang cảnh xóm thôn nghe chừng đổi khác nhưng nét chân tình trong con người anh vẫn như xưa. Vẫn giọng nói hồ hởi khi anh nói về tranh và lật giở từng tranh cho chúng tôi xem.

Nghe anh giảng giải kỹ thuật vẽ tranh mới thấy biết bao công phu trong nghề. Anh Tấn tâm sự: “Nhà đông, tôi cũng phải cho các cháu làm thêm vàng mã để sống.

Nhưng mình không làm tranh nữa mà để mai một dòng tranh thì thật tủi hổ với ông cha, các anh ạ! Nhiều khi tôi dành hẳn một gian buồng trong nhà để sáng tác mẫu tranh.

Gian ngoài cho các cháu làm hàng khỏi bề bộn và đỡ bận tâm đến không khí sáng tác của mình. Kinh tế gia đình từ những năm đổi mới cũng đỡ nên tôi cũng có điều kiện vẽ tranh hơn”.

Do chịu khó học hỏi  và yêu nghề làm tranh dân gian, anh Tấn được các cụ nghệ nhân trong làng truyền nghề cho. Các loại tranh in ván, tranh khắc, trổ lé... anh đều nắm vững và xử lý kỹ thuật làm tranh thuần thục.

 Những năm trước anh Tấn được tín nhiệm phụ trách tổ làm tranh Đông Hồ gia công cho Nhà nước theo chủ trương phục hồi dòng tranh dân gian. Anh Tấn đã sáng tác hàng trăm tranh, có nhiều tranh chưa đưa ra xuất bản, biểu hiện công phu tìm tòi xử lý chất liệu trong tranh dân gian.

Các tranh “Bắt sống phi công Mỹ”, “Bác Hồ về thăm làng” đã được Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam treo trang trọng và in trong các vựng tập là niềm vui  của anh trên đường tìm về với những giá trị văn hóa dân tộc.

Nét say mê nghệ thuật ấy chưa bao giờ giảm trong anh. Anh vẫn cất công ra phố phường Hà Nội để sưu tập bộ tranh “Bát tiên” và “Tố nữ” cổ mà lâu nay thất lạc.

Ai về làng Mái...

Các nhà nghiên cứu nghệ thuật Vương Như Chiêm, Chu Quang Trứ, khi về Đông Hồ đều tìm đến anh Tấn để tìm hiểu ngọn ngành của dòng tranh “độc nhất, vô nhị” này...

Nhiều đoàn khách nước ngoài Nhật, Tiệp, Thụy Điển qua sự trình bày của anh Tấn đều viết bài ca ngợi vẻ đẹp làng tranh với sức sáng tạo dồi dào của các nghệ nhân trên các báo, tạp chí nổi tiếng của thế giới.

Anh Tấn đã mất bởi  trọng bệnh nhưng những gì anh dành cho khôi phục dòng tranh Đông Hồ cũng khiến chúng tôi nể phục.Và cách đây không lâu, tôi và một  nghệ sĩ nhiếp ảnh về làng tranh gặp lại nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế - người làm sống lại một dòng tranh.

Vẫn còn cảnh dọc các lối ngõ phấp phới những tờ giấy nhuộm màu sặc sỡ, xanh, đỏ, tím, vàng...  phơi trên các sào nứa. Vẫn còn cơ man giấy trang kim anh ánh nổi lập lờ trên mặt nước đen kịt khắp cống rãnh đổ ra mương máng...

Cả làng bây giờ vẫn làm vàng mã (nguồn sống chính của làng bán cho người dưới cõi âm). Họ xây được nhà tầng, mua xe máy, sắm ti vi. Cái làm chúng tôi thực sự cảm động là riêng nhà ông Chế cũng xây được nhà tầng khang trang và nuôi sống cả gia đình bằng tiền làm tranh.

Đưa tranh Đông Hồ đến với đời sống trong cơ chế thị trường là một cuộc giành giật không dễ dàng chút nào và tốn không ít công sức. Vẻ đẹp của tranh là vẻ đẹp cố hữu của giá trị văn hóa truyền thống.

Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy ông Chế là người rất chịu khó. Ông từng mày mò vào phòng lưu trữ - Thư viện Quốc gia Việt Nam photocopy toàn bộ mẫu tranh dân gian Việt Nam do một nhà xuất bản có uy tín ở Paris (Pháp) ấn hành năm 1960 mang về nghiên cứu.

Được sự tài trợ của tổ chức SIDA, UNESCO, ông tu sửa lại khu nhà gỗ và phục chế hơn 100 bản khắc cổ... Và nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế suy nghĩ rất lung, ông quyết định in tranh Đông Hồ bằng nhiều cách khác nhau:

Tranh bộ, tranh mực nho, bưu thiếp, bưu ảnh... tùy theo kích  cỡ khác nhau và thị hiếu của đối tượng người mua mà vẫn giữ được hồn vía của tranh.

Ai về làng Mái...

Bồi hồi ngắm từng chồng bản khắc gỗ từng phủ bụi thời gian và những bức tranh dân gian được treo trang trọng trên tường mang đậm sắc thái Việt, tôi hỏi ông Chế: “Sao ông lại mê nghề làm tranh như vậy?”. Ông Chế cười hồn hậu, nếp nhăn trên trán giãn theo sự cởi mở của mạch chuyện: “Nói thực với anh, nghề của ông cha, giữ gìn là trách nhiệm của con cháu.

Bỏ nghề, rửa nghề thì nhục lắm. Những năm tôi làm giảng viên ở trường Mỹ thuật Việt Nam và công tác ở nhà Xuất bản Văn hóa đã cho tôi khả năng truyền đạt tranh dân gian trong đời sống và năng động trong xuất bản. Tôi đã vận dụng và phát huy sau khi đã nghỉ hưu về làng.

Như anh đã thấy bí quyết của tôi là: Sản xuất tranh đẹp theo nhiều nhu cầu khác nhau và tạo được mạng lưới phát hành tranh rộng rãi trên cả nước”.

Khi tìm hiểu, chúng tôi được biết gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế còn tự bỏ tiền xây dựng khu trưng bày, giới thiệu sản phẩm của làng nghề hàng năm thu hút hàng trăm nghìn lượt du khách trong và ngoài nước đến tham quan, tìm hiểu cách thức in tranh và mua tranh.

Ông Chế rất vui khi nghe tin tranh Đông Hồ hiện đang được cơ quan chức năng của Việt Nam lập hồ sơ đệ trình UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.

Chúng tôi rời làng tranh Đông Hồ trong một buổi sớm mai heo may chớm lạnh. Mặt trời đã lên nửa con sào mà khói sương còn vơ vẩn trên mái nhà, ngọn cây, đất bãi.

Dòng sông Đuống cứ lặng lẽ trôi xuôi, chảy mãi về xa... Tự nhiên như cảm được cái hồn của trời đất, tôi ước ao một ngày nào đó không xa, tôi trở về cái làng tranh đã in dấu vết khá đậm trong tuổi thơ của tôi những sắc màu dân dã ấy... lại bừng lên cái rậm rịch của không khí những ngày xeo giấy, khắc ván in tranh, phơi tranh.

Và ai đó kia như mẹ tôi tóc trắng như cước đang cầm thét thông quét lên nền điệp trắng ngà.

Cái nền điệp ai đó đã ngắm một lần chắc chẳng thể nào quên: “Con về mùa nắng thơm reo/Vẹn nguyên màu trắng trong veo giữa trời”.

Và tôi ước ao...

Nhà thơ Nguyễn Thanh Kim

CÙNG CHUYÊN MỤC
Xem theo ngày
Báo dân sinh
Báo dân sinh
Báo dân sinh