53.000 tỷ đồng cho vay BOT, có nguy cơ phải cơ cấu nợ, phát sinh nợ xấu cho các ngân hàng
- Huyệt vị
- 18:28 - 21/10/2019
Trong báo cáo vừa gửi đến Quốc hội để phục vụ kỳ họp thứ 8 sẽ bắt đầu từ 21/10, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Minh Hưng cho biết, đến ngày 30/9/2019, tín dụng tăng 9,4% so với cuối năm 2018.
Theo báo cáo của Thống đốc, trên cơ sở mức tăng trưởng 13,89% của tín dụng cuối năm 2018, mục tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm phát năm 2019, Ngân hàng nhà nước định hướng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2019 là 14%, có điều chỉnh linh hoạt phù hợp diễn biến, tình hình thực tế nhằm kiểm soát lạm phát, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý. Đến ngày 30/9/2019, tín dụng tăng 9,4% so với cuối năm 2018.
Cơ cấu tín dụng tiếp tục có sự điều chỉnh tích cực, trong đó tín dụng tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên. Tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát chặt chẽ. Tín dụng ngoại tệ được kiểm soát phù hợp với lộ trình hạn chế đô la hóa trong nền kinh tế.
Cụ thể hơn, Thống đốc thông tin, đến tháng 8/2019, tín dụng đối với ngành công nghiệp tăng 6,76% so với cuối năm 2018, chiếm tỷ trọng 19,61%, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,4%, chiếm 14,98%; tín dụng đối với ngành xây dựng tăng 7,61%, chiếm 9,66%. Tín dụng đối với ngành dịch vụ tăng 9,27%, chiếm 61,8%.
Cũng tính đến tháng 8/2019, dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tăng khoảng 6% so với cuối năm 2018, chiếm khoảng 24,26% tổng dư nợ đối với nền kinh tế; doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 11,42%, chiếm 18,67%; lĩnh vực xuất khẩu tăng 13,21%, chiếm 3,16%; lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ tăng 1,85%, chiếm 2,91%; doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng 22,04%, chiếm 0,41%.
Tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản (bao gồm cả mục đích kinh doanh và mục đích tự sử dụng) tăng 14,58% so với cuối năm 2018, chiếm 19,14% tổng dư nợ nền kinh tế; lĩnh vực đầu tư, kinh doanh chứng khoán tăng 8,7%, chiếm 0,4%; tín dụng phục vụ nhu cầu đời sống tăng 13,92%, chiếm 20,69%.
Đáng chú ý, ước đến tháng 9/2019, các dự án BOT, BT giao thông tăng 1,85%, chiếm 1,4%.
Cũng tại báo cáo này, Thống đốc lo ngại khi hiện nay, có nhiều dự án BOT, BT giao thông đã hoàn thành, đi vào khai thác có doanh thu không đạt như phương án tài chính ban đầu, với dư nợ khoảng 53.000 tỷ đồng có nguy cơ phải cơ cấu nợ, phát sinh nợ xấu cho các ngân hàng thương mại.
Theo báo Đời sống Pháp luật, cách đây không lâu, LienVietPostBank Chi nhánh TP.HCM rao bán khoản nợ có tài sản bảo đảm là quyền thu phí phát sinh tại Dự án BOT nối từ đường Võ Văn Kiệt đến cao tốc TP.HCM - Trung Lương (giai đoạn I) để thu hồi khoản nợ hơn 457 tỷ đồng. Dự án do Công ty cổ phần Tập đoàn Yên Khánh làm chủ đầu tư, khởi công từ năm 2015, nhưng đến nay vẫn còn dang dở.
Không chỉ LienVietPostBank, hàng chục ngân hàng trót cho vay BOT cũng đang trong cảnh đứng ngồi không yên, bởi hiện có hơn hai chục dự án BOT có lưu lượng xe thực tế thấp hơn so với dự báo. Số liệu của Bộ Giao thông - Vận tải cho thấy, hiện có gần 30 dự án có doanh thu thực tế thấp hơn phương án tài chính ban đầu và không đủ trả nợ ngân hàng. Đặc biệt, nếu việc tăng thu phí của các trạm BOT tiếp tục bị hoãn lại so với hợp đồng, dự báo sẽ có gần chục dự án bị "vỡ" phương án tài chính.
Đại diện Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước) khẳng định, nhu cầu vốn đầu tư hạ tầng ở Việt Nam là rất lớn, song rủi ro cũng rất cao. Nguyên nhân là các dự án BOT giao thông thường có tổng mức đầu tư lớn, thời gian vay dài, chủ đầu tư có năng lực hạn chế, vốn tự có thấp (10-15%), các dự án BOT thường chậm tiến độ, chi phí phát sinh lớn… ảnh hưởng đến nguồn trả nợ ngân hàng.