Ý nghĩa ngày dân số thế giới
- Sức khỏe
- 04:26 - 11/07/2019
Năm 1968, tại Hội nghị Quốc tế về Quyền con người do Liên hợp quốc tổ chức đã khẳng định rõ các cặp vợ chồng hoàn toàn có quyền tự mình đưa ra các quyết định về thực hiện kế hoạch hóa gia đình cho chính bản thân mình. Mặc dù chúng ta đã đạt được những tiến bộ to lớn kể từ năm 1968, hiện nay vẫn có hàng trăm triệu phụ nữ, nam giới và thanh niên chưa có cơ hội được tự mình đưa ra các quyết định này. Trên thế giới hiện nay có khoảng 214 triệu phụ nữ có nhu cầu tránh thai nhưng chưa tiếp cận được với các dịch vụ và biện pháp tránh thai hiện đại.
Khi phụ nữ tiếp cận được với Kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) tự nguyện, họ sẽ có cơ hội giãn khoảng cách giữa các lần sinh con và điều này mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe của bà mẹ và con cái của họ. Thực hiện KHHGĐ cũng góp phần giảm nguy cơ tử vong và khuyết tật liên quan tới mang thai hoặc sinh con quá sớm/quá muộn cho phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Khi thanh niên và vị thành niên tiếp cận được với càng nhiều thông tin, họ sẽ có nhiều cơ hội đưa ra những sự lựa chọn tốt hơn và có thể mang lại cho chính mình một tương lai tốt đẹp hơn. Khi phụ nữ không phải trải qua nhiều lần sinh nở nguy hiểm đến tính mạng, nếu mỗi lần mang thai đều mạnh khỏe và mỗi lần sinh nở đều được an toàn, thì nguy cơ tử vong mẹ sẽ giảm và sức khỏe của bản thân người phụ nữ sẽ được cải thiện. Trên phạm vi toàn cầu, tỷ lệ lây nhiễm các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục cao nhất trong nhóm thanh niên và vị thành niên trong độ tuổi từ 15-24. Cung cấp các dịch vụ KHHGĐ, đặc biệt là cung cấp bao cao su nam và nữ sẽ góp phần đẩy mạnh công tác phòng chống các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục. Bởi vậy, kỷ niệm ngày Dân số Thế giới năm nay, Quỹ dân số Liên hợp quốc lựa chọn chủ đề: “Thành công của kế hoạch hóa gia đình là tiền đề cho phát triển bền vững”.
Trong những năm qua, kết quả của công tác dân số KHHGĐ do Đảng, Nhà nước ta lãnh đạo đã thu được thắng lợi rất quan trọng trong việc phấn đấu giảm sinh, hạ thấp tỷ lệ tăng dân số. Dân số trung bình năm 2017 của cả nước ước tính 93,7 triệu người, tăng 1,07% so với năm 2016. Tại Việt Nam, tổng tỉ suất sinh đã giảm, từ mức mỗi cặp vợ chồng có tới 5 con vào những năm 1970, đến nay tỉ lệ này đã ở mức sinh thay thế là 2,04 con tại thời điểm 2017. Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại đã tăng từ 37% trong năm 1988 lên 67% trong năm 2017. Các chỉ số sức khỏe như tử vong mẹ đã giảm từ 233/100.000 vào những năm 1990 xuống đến 69/100.000 năm 2009 và hiện đã giảm xuống 58.3/100.000 vào năm 2016.
Mặc dù vậy, công tác DS-KHHGĐ nước ta còn có nhiều khó khăn và thử thách. Nước ta vẫn là một quốc gia có quy mô dân số lớn đứng thứ 14 thế giới, thứ 8 châu Á và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Mật độ dân số cao và phân bố mất cân đối lớn, chủ yếu tập trung ở đô thị và đồng bằng chật hẹp. Đặc biệt, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn đang ở mức báo động. Chất lượng dân số có được cải thiện nhưng còn thấp, các nội dung chăm sóc sức khỏe sinh sản còn hạn chế.
Ðể đưa đất nước đi lên, phát triển bền vững, công tác DS-KHHGĐ đã và đang tập trung toàn diện các vấn đề dân số cả về quy mô, cơ cấu, phân bố và nâng cao chất lượng dân số với các nhiệm vụ chủ yếu như: Duy trì mức sinh thay thế; giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh; tận dụng cơ cấu dân số vàng; thích ứng với quá trình già hóa dân số; điều chỉnh phân bố dân số hợp lý và nâng cao chất lượng dân số... vì sự phát triển bền vững của đất nước.
Kế hoạch hóa gia đình không những góp phần làm giảm tỷ lệ sinh, tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên mà còn có ảnh hưởng rất lớn đến việc giảm tỷ lệ mang thai ngoài ý muốn, nạo phá thai không an toàn, đồng thời giảm số ca tử vong mẹ và tử vong trẻ em…
Năm 2017, công tác dân số KHHGĐ đạt các chỉ tiêu Kế hoạch của Thành phố đề ra, tạo cơ sở để hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch giai đoạn 5 năm từ năm 2016 đến năm 2020, cụ thể, năm 2017, tỷ suất sinh đạt 15,62‰, giảm 0,23‰ so với năm 2016. Số sinh con thứ 3 trở lên đạt tỷ lệ 9.8% giảm 0,15% so với năm 2016. Tỷ số giới tính khi sinh là 114.2 trẻ trai/100 trẻ gái. Tỷ lệ sàng lọc trước sinh: 90 % số bà mẹ mang thai. Tỷ lệ sàng lọc sơ sinh đạt 72% số trẻ sinh ra. Thực hiện sàng lọc khiếm thính tại cộng đồng cho 2.301 ca.Tỷ lệ sử dụng BPTT (CPR) đạt 75% (đạt chỉ tiêu giao).
Ngoài ra, hiện nay nhiều mô hình được duy trì và nhân rộng tại các địa bàn trên toàn huyện như mô hình chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên; mô hình tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân; mô hình chăm sóc sức khỏe người cao tuổi…Trung tâm DS-KHHGĐ huyện đã phối hợp với Trung tâm y tế huyện để tổ chức các buổi truyền thông kiến thức SKSS/KHHGĐ cho các đối tượng là phụ nữ quanh tuổi mãn kinh, nam giới, vị thành niên thanh niên..; Phối hợp với huyện đoàn tổ chức truyền thông chăm sóc sức khỏe sinh sản/KHHGĐ và các bệnh lây truyền qua đường tình dục cho các đoàn viên thanh niên…; Phối hợp với Hội Nông dân, Mặt trận Tổ quốc huyện, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Liên đoàn lao động để truyền thông chính sách Dân số - KHHGĐ, kiến thức CSSKSS/KHHGĐ, bình đẳng giới cho cán bộ trong hệ thống và phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ…
Phát huy tinh thần tăng cường trách nhiệm của cộng đồng xã hội, mỗi gia đình cần quan tâm đầu tư cho phụ nữ. Kế hoạch hóa gia đình sẽ là cơ sở để người dân có thể thực hiện các quyền khác như quyền chăm sóc sức khỏe, quyền tham gia học tập đồng thời cho phép người dân có được một cuộc sống tốt hơn. Cách thức tiếp cận dựa trên quyền trong thực hiện KHHGĐ sau khi được cung cấp đầy đủ thông tin chính là biện pháp can thiệp hiệu quả nhất với chi phí thấp nhất nhằm giải quyết các vấn đề tử vong và bệnh tật ở người mẹ. Đảm bảo tiếp cận phổ cập với các dịch vụ chăm sóc SKSS, bao gồm KHHGĐ sẽ giúp các quốc gia đẩy nhanh tiến độ xóa đói giảm nghèo và đạt được các mục tiêu phát triển toàn cầu một cách nhanh chóng hơn. Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, HĐND, UBND, Trung tâm Dân số - KHHGĐ phấn đấu hoàn thành thành các mục tiêu của chương trình dân số đề ra, vì lợi ích của những thế hệ hiện tại và tương lai, vì lợi ích của mỗi người, mỗi quốc gia và vì sự phồn vinh của nhân loại.
Theo HANOI.GOV.VN