Trình Quốc hội 2 siêu dự án đường Vành đai 3 TP. HCM và Vành đai 4 vùng thủ đô Hà Nội trị giá 161.191 tỷ đồng
- Tây Y
- 12:20 - 06/06/2022
Sáng nay (6/6), theo Chương trình Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày sẽ Tờ trình về chủ trương đầu tư Dự án đường Vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội và Dự án đường Vành đai 3 TP.HCM – hai công trình hạ tầng giao thông đô thị lớn nhất từng được triển khai tại Việt Nam.
Hai siêu dự án đường vành đai trị giá 161.191 tỉ đồng
Theo tờ trình của Chính phủ, dự án đường Vành đai 3 có tổng chiều dài tuyến là 76,34 km, bao gồm: TP HCM: 47,51 km, Đồng Nai: 11,26 km, Bình Dương: 10,76 km, Long An: 6,81 km. Điểm đầu của dự án là nút giao với đường cao tốc Bến Lức - Long Thành (thuộc địa phận huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai), điểm cuối là nút giao với cao tốc Bến Lức - Long Thành (huyện Bến Lức, tỉnh Long An).
Đường Vành đai 3 được đầu tư thành đường cao tốc loại A, vận tốc thiết kế 80 km/giờ với bề rộng mặt cắt ngang là 19,75 m, được phân kỳ đầu tư theo nhu cầu vận tải và sự phát triển đô thị hai bên đường.
Dự án sơ bộ có tổng mức đầu tư giai đoạn phân kỳ (giai đoạn 1) khoảng 75.378 tỉ đồng được đầu tư bằng ngân sách trung ương và địa phương, trong đó ngân sách trung ương bố trí 38.741 tỉ đồng (TP HCM: 24.011 tỉ đồng, Đồng Nai: 1.934 tỉ đồng, Bình Dương: 9.640 tỉ đồng, Long An: 3.156 tỉ đồng).
Ngân sách địa phương bố trí 36.637 tỉ đồng (TP HCM: 24.011 tỉ đồng, Đồng Nai: 1.934 tỉ đồng, Bình Dương: 9.640 tỉ đồng, Long An: 1.052 tỉ đồng).
Trong đó, giai đoạn 2021-2025, ngân sách trung ương bố trí 31.380 tỉ đồng; ngân sách địa phương bố trí 36.637 tỉ đồng.
Dự án phân chia thành 8 dự án thành phần, tách riêng phần giải phóng mặt bằng và phần xây dựng triển khai độc lập theo địa giới hành chính giữa các địa phương, thực hiện theo hình thức đầu tư công.
Chính phủ dự kiến năm 2022, 2023 chuẩn bị dự án; bắt đầu từ quý III/2022 thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; quý IV/2023 xây dựng hệ thống đường cao tốc và đường song hành, cơ bản hoàn thành năm 2025, hoàn thành toàn bộ vào năm 2026, quyết toán năm 2027.
Với tính chất là dự án quan trọng quốc gia, để bảo đảm tiến độ đầu tư, tạo thuận lợi trong quá trình triển khai, Chính phủ đề nghị QH cho áp dụng một số cơ chế, chính sách đặc biệt về nguồn vốn, tổ chức thực hiện dự án, cơ chế chỉ định thầu, khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường…
Sau khi dự án hoàn thành đưa vào sử dụng sẽ tổ chức thu phí để thu hồi vốn đầu tư. Chính phủ tổ chức thực hiện xây dựng phương án, tổ chức thu hồi vốn đầu tư dự án để hoàn trả vào ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.
Với Dự án Vành đai 4, Chính phủ trình QH xem xét, quyết định chủ trương đầu tư, dự án được xác định có tổng chiều dài khoảng 112,8 km (gồm 103,1 km đường Vành đai 4 và 9,7 km tuyến nối theo hướng cao tốc Nội Bài - Hạ Long) đi qua Hà Nội, Hưng Yên, Bắc Ninh. Dự án sẽ được triển khai theo hình thức đầu tư công kết hợp đầu tư PPP (đối tác công - tư) với sơ bộ tổng mức đầu tư (giai đoạn 1) dự kiến khoảng 85.813 tỉ đồng.
Trong đó ngân sách trung ương 28.200 tỉ đồng, ngân sách địa phương là 28.203 tỉ đồng (TP Hà Nội 23.594 tỉ đồng, Hưng Yên 1.509 tỉ đồng, Bắc Ninh 3.100 tỉ đồng), vốn BOT 29.410 tỉ đồng. Nhằm giải quyết các giao cắt hai bên tuyến, Chính phủ lựa chọn phương án 65% chiều dài đường Vành đai 4 đi trên cao.
Còn khoảng 39,13 km (Hà Nội 10,53 km, Hưng Yên 8,4 km, Bắc Ninh 20,2 km) được thiết kế đi thấp để phù hợp với khả năng cân đối nguồn vốn, bảo đảm hiệu quả đầu tư.
Cụ thể hóa trách nhiệm “đầu mối” của Hà Nội và TPHCM
Thẩm tra 2 dự án, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh kiến nghị cần cụ thể hóa trách nhiệm “đầu mối” của Hà Nội và TPHCM tại dự thảo Nghị quyết của các Dự án khi quy định pháp luật hiện hành chưa có quy định về khái niệm cũng như trách nhiệm, quyền hạn cụ thể về vai trò này.
Đồng thời, do các dự án thành phần sẽ giao các địa phương tổ chức thực hiện nên có thể dẫn đến mỗi cơ quan tổ chức một cách khác nhau, không bảo đảm được tính đồng bộ, thống nhất và có thể dẫn đến tăng tổng mức đầu tư của các dự án.
Vì vậy, Ủy ban Kinh tế đề nghị giao cho một cơ quan có năng lực, kinh nghiệm thực hiện công tác thẩm định cho các dự án thành phần của 2 dự án.
Đối với cơ chế, chính sách dự án Vành đai 4, trong đó có việc cho phép phần vốn nhà nước tham gia tối đa 66% tổng mức đầu tư, Ủy ban Kinh tế cho rằng, dự án có sơ bộ tổng mức đầu tư rất lớn.
Do đó nếu áp dụng theo khoản 2 Điều 69 của Luật Đầu tư theo phương thức PPP sẽ không khả thi về phương án tài chính và khó thu hút được các nhà đầu tư tham gia đầu tư dự án. Vì vậy, đa số ý kiến tán thành với đề xuất này.
Đối với cơ chế, chính sách dự án Vành đai 3 TPHCM, Ủy ban Kinh tế nhất trí với chủ trương dự án sau khi hoàn thành đưa vào sử dụng cần tổ chức thực hiện thu phí để thu hồi vốn đầu tư cho ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.
Tuy nhiên, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ trong bước nghiên cứu khả thi cần xác định chính xác tỷ lệ góp vốn ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương đối với phần đường cao tốc để làm cơ sở xây dựng phương án thu hồi vốn đầu tư hoàn trả ngân sách.
Sau khi nghe tờ trình và báo cáo thẩm tra, Quốc hội sẽ về tổ thảo luận về 2 dự án Vành đai 3 và Vành đai 4.