Tham luận của Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền tại Đại hội Đảng lần thứ XII
- Tra cứu sét nghiệm y khoa
- 22:38 - 23/01/2016
TIẾP TỤC HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI, THỰC HIỆN TIẾN BỘ, CÔNG BẰNG XÃ HỘI, NÂNG CAO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN,GÓP PHẦN ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ VÀ TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI
Bảo đảm an sinh xã hội (ASXH) là chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng trong lãnh đạo đất nước, là chính sách cơ bản để giảm nghèo, bảo đảm đời sống của nhân dân, thực hiện công bằng, tạo sự đồng thuận xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, củng cố và tăng cường quốc phòng, an ninh.
Ngay từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Đảng và Nhà nước đã coi nhiệm vụ diệt giặc đói, giặc dốt như diệt giặc ngoại xâm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh có mong ước “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Cụm từ “an sinh xã hội” được chính thức sử dụng tại Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (4/2001): “Khẩn trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội”.
Đặc biệt, Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XI) “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020”, Nghị quyết đầu tiên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về vấn đề xã hội, đã đặt ra yêu cầu: “Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ”; coi bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ.
1. Phát triển hệ thống an sinh xã hội, đảm bảo thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của con người, phù hợp với một quốc gia có thu nhập trung bình, đáp ứng các chuẩn mực quốc tế
Trong những năm khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu vừa qua, dù nền kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn, Đảng và Nhà nước vẫn giành sự quan tâm đặc biệt đối với các chính sách xã hội.
Giai đoạn 2012-2015 đã có sự thay đổi mạnh mẽ trong xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội của nước ta.
Hệ thống chính sách, pháp luật tiếp tục mở rộng hơn quyền hưởng và mức hưởng các chế độ ưu đãi xã hội và ASXH cho người dân, đặc biệt trong lĩnh vực việc làm, tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung các quyền về ASXH của người dân:
Điều 34 xác nhận “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”;
Điều 59 đề ra trách nhiệm “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội”.
Nghị quyết số 15-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đặt mục tiêu, đến năm 2020 cơ bản hình thành hệ thống an sinh xã hội bao phủ toàn dân với các yêu cầu: bảo đảm để người dân có việc làm, thu nhập tối thiểu; tham gia bảo hiểm xã hội và bảo đảm hỗ trợ kịp thời những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người cao tuổi thu thập thấp, người khuyết tật nặng, người nghèo…), góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân.
Thể chế hóa quan điểm của Đảng và thực hiện Hiến pháp năm 2013, việc bảo đảm an sinh xã hội cho mọi người dân được thực hiện đồng bộ, thông qua tăng cường phát triển việc làm, mở rộng sự tham gia vào hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, cải cách chính sách trợ giúp xã hội và giảm nghèo bền vững.
* Hướng tới việc làm bền vững
Bộ Luật lao động sửa đổi (2012): Tiếp tục phát triển thị trường lao động, tăng cường điều kiện hoạt động của các đối tác tham gia thị trường lao động (Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức môi giới trung gian và người lao động); tăng cường hỗ trợ của Nhà nước đối với người lao động yếu thế trên thị trường thông qua các chính sách hỗ trợ tạo việc làm.
Luật việc làm (2013): Lần đầu tiên Việt Nam có luật hướng đến khu vực kinh tế phi chính thức, đã tạo điều kiện để hỗ trợ lao động nghèo, lao động nông thôn, người thất nghiệp và tăng cường cơ hội việc làm cho lao động khu vực phi chính thức.
Hiện tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã và đang xây dựng để đưa Bộ Luật Lao động và Luật Việc làm vào thực tiễn.
Mặc dù kinh tế chậm phục hồi, Chương trình mục tiêu Quốc gia về Việc làm và Dạy nghề (CTMTQG VL-DN) tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong tạo việc làm.
Bình quân mỗi năm, Quỹ Quốc gia về việc làm đã hỗ trợ tạo việc làm cho các nhóm đối tượng yếu thế (lao động là người khuyết tật, lao động là người dân tộc, lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp...) được tạo cơ hội vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho bản thân và cộng đồng.
Hệ thống cơ sở dữ liệu về thị trường lao động và hệ thống thông tin thị trường lao động được hoàn thiện và phát triển. Thông tin, số liệu về cung, cầu lao động được cập nhật hàng năm, đưa lên cổng thông tin để các tỉnh, thành phố khai thác.
Năm 2015, cả nước có 52,9 triệu người có việc làm. Chuyển dịch cơ cấu việc làm theo ngành kinh tế có chuyển biến tích cực, tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp giảm, năm 2015 còn 44,3% (giảm 4,4% so với năm 2010).
Đến cuối năm 2014, cả nước có trên 19 triệu lao động làm công ăn lương, chiếm trên 36% tổng số việc làm.
Năm 2015 số lượng lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đạt mức kỷ lục, 115 nghìn người, đưa tổng số lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài lên trên 500.000 người.
Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động vẫn luôn duy trì ở mức thấp, năm 2015 là 2,31%, tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 3,29%.
* Thực hiện tốt các chế độ, chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng, đời sống người có công được nâng lên
Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” đã bổ sung chính sách, mở rộng đối tượng, từng bước nâng mức trợ cấp chính sách ưu đãi người có công phù hợp điều kiện kinh tế của đất nước (Mức chuẩn trợ cấp năm 2015, tăng 71,2% so với năm 2010).
Theo đó, tổng kinh phí thực hiện chính sách đối với người có công tăng từ 21 ngàn tỷ năm 2011 lên trên 32 ngàn tỷ đồng năm 2015.
Việc triển khai thực hiện chính sách bảo đảm đúng, đủ và kịp thời tới đối tượng được hưởng.
Các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, “Xã, phường làm tốt công tác thương binh, liệt sỹ, người có công” được phát triển sâu rộng ở tất cả các địa phương, qua đó đã huy động được nhiều nguồn lực trong xã hội, cộng đồng cùng nhà nước chăm sóc tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần của người có công với cách mạng.
Đời sống người có công không ngừng được cải thiện, đến cuối năm 2015 có 98,5% hộ gia đình chính sách người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình hộ dân cư nơi cư trú, tăng thêm 8,5% số hộ so với năm 2010.
* Tăng cường trợ giúp xã hội cho người có hoàn cảnh đặc biệt
Trong thời gian qua, hệ thống chính sách trợ giúp xã hội (TGXH) không ngừng mở rộng, bao phủ hầu hết các nhóm đối tượng từ trẻ sơ sinh đến người già; hỗ trợ không chỉ người nghèo mà còn mở rộng sang các đối tượng khác.
Mức chuẩn trợ cấp được điều chỉnh tăng, điều kiện hưởng và hình thức hỗ trợ ngày càng mở rộng.
Nguồn lực thực hiện chính sách TGXH được đa dạng, kết hợp ngân sách trung ương, địa phương và của xã hội.
Các hình thức trợ giúp ngày càng đa dạng, bao gồm tiền mặt hàng tháng, tiền nuôi dưỡng trong các cơ sở bảo trợ xã hội; hỗ trợ về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch…
Đến năm 2015, cả nước có gần 2,7 triệu đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng tại cộng đồng (xấp xỉ 3% dân số); cả nước có 408 cơ sở trợ giúp xã hội được thành lập, đã tiếp nhận, nuôi dưỡng, chăm sóc hơn 41.450 đối tượng bảo trợ xã hội (BTXH).
Công tác cứu trợ đột xuất đã được thực hiện tương đối tốt và kịp thời, hầu hết những hộ gia đình và cá nhân chịu hậu quả thiên tai đều được hỗ trợ theo quy định của Nhà nước.
* Phát triển và thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
Nhà nước tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách, về cơ bản đã tạo khuôn khổ pháp luật cho toàn bộ người lao động tham gia bảo hiểm xã hội và đa số người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp,
Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi (2014): Mở rộng diện tham gia BHXH bắt buộc đối với người lao động làm việc có hợp đồng từ 1 tháng trở lên; tăng cường chế tài đối với việc trốn đóng bảo hiểm xã hội; hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện theo hướng linh hoạt và phù hợp với điều kiện về việc làm và thu nhập của lao động trong khu vực phi chính thức; đề xuất giải pháp khuyến khích người lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội; hiện đại hóa công tác quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội.
Luật việc làm (2013): Mở rộng cơ hội cho người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp (mọi lao động làm việc trong các doanh nghiệp có hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên đều bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp).
Luật an toàn, vệ sinh lao động (2015): Mở rộng diện tham gia bảo hiểm tai nạn lao động, phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm tai nạn lao động tự nguyện với cơ chế đóng, hưởng linh hoạt; đầu tư cho hoạt động phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và chăm sóc sức khỏe cho người lao động; hỗ trợ duy trì khả năng tham gia lao động cho người lao động sau khi bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Đến cuối năm 2015, cả nước có trên 12,07 triệu người tham gia Bảo hiểm xã hội, chiếm trên 23% lực lượng lao động (trong đó, tham gia BHXH bắt buộc trên 11,85 triệu người, tăng trên 2,25 triệu người so với cuối năm 2010; tham gia BHXH tự nguyện trên 223 nghìn người, tăng trên 148 nghìn người so với cuối năm 2010).
Cả nước hiện có gần 2,6 triệu người đang hưởng lương hưu và trợ cấp Bảo hiểm xã hội.
Có trên 9,9 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp, tăng 3,6 triệu người so với cuối năm 2010.
Chính sách Bảo hiểm thất nghiệp đã phát huy tác dụng trong bối cảnh kinh tế khó khăn vừa qua: từ tháng 01/2011 đến cuối năm 2015 có trên 2,07 triệu lượt người được hưởng trợ cấp thất nghiệp; trên 1,7 triệu lượt người tư vấn, giới thiệu việc làm; trên 122 nghìn lượt người được hỗ trợ học nghề...
* Hướng tới giảm nghèo toàn diện và bền vững
Chính sách giảm nghèo tiếp tục được hoàn thiện theo hướng: tăng cường hỗ trợ người nghèo toàn diện; tập trung giảm nghèo cho đồng bào dân tộc, các vùng nghèo, huyện nghèo; cải cách, đổi mới thể chế chính sách, nâng cao hiệu quả thực hiện chương trình giảm nghèo; cải cách quản lý, thực hiện mục tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững.
Trong thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ người nghèo về giáo dục - đào tạo; tiếp cận y tế; hỗ trợ đối với hộ gia đình làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp có mức sống trung bình tham gia BHYT; sửa đổi chính sách hỗ trợ tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo về mức vay và lãi suất vay; với hộ cận nghèo, được sửa đổi theo hướng kéo dài thời gian cho vay đối với hộ mới thoát nghèo; chính sách đào tạo nghề, tạo việc làm, xuất khẩu lao động tiếp tục được hoàn thiện, trong đó ưu tiên cho hộ nghèo dân tộc thiểu số, hộ sinh sống trên địa bàn các huyện nghèo, xã nghèo; hỗ trợ về nhà ở, tiền điện cho hộ nghèo.
Đến cuối năm 2015, tỷ lệ nghèo theo chuẩn Quốc gia còn dưới 4,5%; Các chương trình giảm nghèo đã có tác dụng tích cực làm tăng khả năng thoát nghèo của hộ nghèo, giảm khoảng cách nghèo giữa các vùng, miền, nhóm dân tộc; đời sống của người dân, nhất là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng yếu thế được cải thiện và nâng cao.
2. Một số thách thức của việc đảm bảo an sinh xã hội hiện nay
* Kết quả đạt được chưa bền vững
Chất lượng việc làm còn thấp, trong khi khả năng tạo việc làm của nền kinh tế trong giai đoạn suy giảm tăng trưởng kinh tế không cao đã ảnh hưởng đến kết quả giải quyết việc làm cho người lao động.
Nguồn lực cho các dự án, chương trình hỗ trợ tạo việc làm thấp, trong khi các địa phương chưa đảm bảo cam kết đối ứng hoặc khó khăn, không có nguồn lực để thực hiện các chương trình, dự án hỗ trợ giải quyết việc làm.
Cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tích cực nhưng vẫn còn chậm, lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao, năm 2015 là 44,3%; chất lượng lao động thấp, tỷ lệ lao động qua đào tạo chung 51,6%, trong đó qua đào tạo từ 3 tháng trở (có bằng cấp chứng chỉ) mới đạt khoảng 21,9%.
Đa số lao động phi chính thức chưa tham gia BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp.
Đến hết năm 2014, cả nước mới có gần 4,415 triệu người từ 55 tuổi trở lên hưởng an sinh tuổi già (gồm 2,2 triệu người hưởng chế độ hưu trí, 1,6 triệu người già trên 80 tuổi và 670 ngàn người cao tuổi thuộc hộ nghèo được hưởng trợ cấp tuổi già), chiếm 32,74% dân số trên độ tuổi lao động.
Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo cao; tỷ lệ nghèo các xã, thôn, bản vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa nhiều nơi vẫn còn trên 50%, cá biệt có nơi còn trên 60-70%; chênh lệch giàu - nghèo về thu nhập và tiếp cận các dịch vụ xã hội giữa các vùng, nhóm dân cư có xu hướng gia tăng, nhất là giữa khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên và các vùng còn lại; giữa người dân tộc thiểu số với người Kinh/Hoa.
Mức trợ cấp xã hội còn thấp, đời sống đối tượng bảo trợ xã hội còn rất khó khăn.
* Sự tham gia của cơ quan, đoàn thể và xã hội, huy động nguồn lực cho thực hiện chính sách còn hạn chế
Nhận thức về vai trò của An sinh xã hội ở không ít cấp uỷ, chính quyền, cán bộ, đảng viên, tổ chức, doanh nghiệp và người dân chưa đúng và chưa đầy đủ, còn coi An sinh xã hội là trách nhiệm riêng của Nhà nước, tư tưởng trông chờ vào Nhà nước, vào Trung ương còn nặng nề.
Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, luật pháp, thanh kiểm tra việc thực hiện An sinh xã hội chưa được quan tâm đúng mức.
Năng lực xây dựng chính sách An sinh xã hội còn hạn chế.
Do các chính sách được ban hành ở nhiều giai đoạn khác nhau, áp dụng cho nhiều nhóm đối tượng khác nhau nên thiếu tính hệ thống, gây khó khăn cho việc áp dụng chính sách, quản lý đối tượng.
Nguồn lực cho thực hiện chính sách xã hội từ ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, chưa huy động hết sự tham gia từ cộng đồng, chính sách khuyến khích người dân tự an sinh, người nghèo tự vươn lên thoát nghèo còn hạn chế.
3. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế trong giai đoạn tới
Tiếp tục cải cách thể chể kinh tế, cải cách doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng GDP trong thời gian tới trên 6,5%/năm để có thêm việc làm, thu nhập và nguồn lực chi cho An sinh xã hội.
Tập trung thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XI) “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020”.
Quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong xây dựng và thực hiện chính sách xã hội, coi các chính sách xã hội là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, lâu dài, liên tục từ đó chủ động đề ra các giải pháp phù hợp nhằm mục tiêu đảm bảo tốt an sinh xã hội, chăm lo cải thiện và không ngừng nâng cao đời sống cho người dân.
Tăng cường thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ và người dân hiểu rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước về các chính sách an sinh xã hội.
Tiếp tục rà soát, đánh giá các chính sách an sinh xã hội trên từng lĩnh vực để hoàn thiện, sửa đổi và bổ sung theo hướng tinh gọn, tích hợp chính sách, thu gọn đầu mối quản lý; mở rộng quyền tham gia và thụ hưởng cho người dân đối với chính sách trợ giúp xã hội.
Tiếp tục phát triển thị trường lao động, phát triển việc làm, bảo đảm an sinh xã hội bền vững, từng bước hoàn thiện thị trường lao động, kết nối cung cầu lao động; phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa để tạo việc làm và chuyển dịch cơ cấu việc làm; tăng cường đối thoại lao động, bảo đảm tiêu chuẩn lao động; tăng cường đào tạo và phát triển kỹ năng cho người lao động…
Hoàn thiện chương trình đào tạo nghề cho nông dân nông thôn; triển khai chương trình việc làm công nhằm tạo thu nhập tạm thời ở mức tối thiểu cho người dân, đặc biệt là người lao động nghèo, người thất nghiệp.
Tiếp tục mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bổ sung các quy định, chế tài về các nghĩa vụ tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế; có chính sách hỗ trợ người lao động phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội; thực hiện cải cách bảo hiểm xã hội để bảo đảm bền vững quĩ.
Tăng cường trợ giúp xã hội. Xây dựng mức sống tối thiểu phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội; có lộ trình tiếp tục điều chỉnh độ tuổi hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng; mở rộng chính sách trợ giúp xã hội đối với người nghèo, người cận nghèo, người dân tộc thiểu số; tiếp tục điều chỉnh tăng mức hưởng trợ cấp thường xuyên phù hợp với điều kiện kinh tế đất nước; tách bạch nhiệm vụ quản lý nhà nước với cung cấp dịch vụ công; tích hợp việc thực hiện các chính sách khác nhau đối với cùng nhóm đối tượng.
Nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp đột xuất; tiếp tục tuyên truyền vận động và tổ chức tốt các phong trào tương thân, tương ái; mở rộng sự tham gia hỗ trợ của cộng đồng, bảo đảm người dân bị thiệt hại khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời.
Đổi mới chính sách giảm nghèo, từ tiếp cận đơn chiều (dựa vào thu nhập) sang đa chiều (dựa vào các yếu tố khác ngoài thu nhập); tập trung nguồn lực trước hết vào thực hiện ở những nơi khó khăn nhất, nghèo nhất để giảm nghèo bền vững; tổng kết các mô hình giảm nghèo, an sinh xã hội đã và đang thực hiện có hiệu quả ở địa phương để có cơ sở hoàn thiện và nhân rộng ra các địa phương khác.
Tích cực và chủ động khai thác các nguồn lực xã hội, nguồn lực quốc tế; xây dựng cơ chế khuyến khích và huy động các tổ chức, doanh nghiệp tham gia cung cấp các dịch vụ xã hội theo phương thức hợp tác công tư; tăng cường sự tham gia của các tổ chức khoa học, tổ chức chính trị - xã hội trong việc đánh giá, giám sát hiệu quả thực hiện các chính sách xã hội./.