Quyền tiếp cận tư pháp của phụ nữ phù hợp với Công ước CEDAW
- Tây Y
- 01:42 - 25/09/2019
Việt Nam luôn nỗ lực thực hiện các quy định của Công ước CEDAW
Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà cho biết, Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) là Công ước nhân quyền cơ bản của Liên hợp quốc mà Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký tham gia vào ngày 29/7/1980 và phê chuẩn vào ngày 27/11/1981. Trong suốt những năm qua, Việt Nam luôn nỗ lực thực hiện các quy định của Công ước CEDAW và đảm bảo việc báo cáo định kỳ tình hình thực hiện Công ước đối với Liên hợp quốc. Năm 2019, theo yêu cầu của Ủy ban CEDAW của Liên hợp quốc, Việt Nam phải thực hiện báo cáo quốc gia định kỳ lần thứ 9 về Công ước này. Theo đó, Ủy ban CEDAW đặc biệt khuyến nghị về việc tăng cường quyền tiếp cận tư pháp của phụ nữ phù hợp với quy định của Công ước CEDAW.
"Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội là cơ quan chủ trì xây dựng báo cáo quốc gia lần thứ 9 về Công ước CEDAW, với sự hỗ trợ của UNDP tại Việt Nam đã tổ chức một nhóm nghiên cứu độc lập tiến hành rà soát, đánh giá hệ thống pháp luật Việt Nam có liên quan cũng như thực tiễn triển khai thực hiện các quy định pháp luật này để đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo việc thực thi tốt hơn quyền tiếp cận tư pháp của phụ nữ theo quy định của Công ước CEDAW.
Có thể thấy quyền tiếp cận tư pháp của phụ nữ được quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam về cơ bản đã phù hợp với quy định của Công ước CEDAW và ngày càng được hoàn thiện. Đặc biệt, sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, một loạt các văn bản pháp luật quan trọng đã được sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới, bảo đảm tốt hơn quyền tiếp cận tư pháp của phụ nữ như: Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Trợ giúp pháp lý.... Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện trên thực tế các quy định này còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, trong đó đáng chú ý là những khó khăn về nguồn lực, năng lực thực thi của hệ thống bao gồm cả hệ thống hành chính, hệ thống tư pháp và các cơ chế, thiết chế bổ trợ tư pháp và định kiến về vấn đề giới trong xã hội", Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà cho hay.
Hội thảo nhằm mục đích tham vấn, lắng nghe ý kiến của các đại biểu đối với dự thảo Báo cáo nghiên cứu về quyền tiếp cận tư pháp của phụ nữ theo qui định của Công ước CEDAW; đặc biệt là các ý kiến đóng góp về giải pháp để giải quyết căn cơ những tồn tại, thách thức đối với quyền tiếp cận tư pháp của phụ nữ nói riêng và quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ nói chung.
Về sự cần thiết và mục đích xây dựng Báo cáo nghiên cứu về quyền tiếp cận tư pháp của phụ nữ phù hợp với Công ước CEDAW, bà Nguyễn Thị Ngọc Yến, Vụ Pháp chế cho biết, trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ to lớn trong việc cải cách hệ thống luật pháp nhằm thúc đẩy bình đẳng về giới. Tuy nhiên, phụ nữ Việt Nam vẫn tiếp tục đối mặt với những bất lợi trong nhiều lĩnh vực của xã hội, bao gồm cả các bất lợi khi tham gia vào hệ thống tư pháp. Bên cạnh đó, việc triển khai thực hiện trên thực tế các qui định pháp luật còn gặp nhiều khó khăn, thách thức do nhiều nguyên nhân.
Mục đích của dự thảo báo cáo, phân tích khung pháp luật hiện hành với trọng tâm là khuôn khổ pháp luật về trợ giúp pháp lý cho phụ nữ nhằm bảo đảm quyền tiếp cận tư pháp của phụ nữ. Thu thập dữ liệu và đánh giá thực trạng thực hiện quyền tiếp cận tư pháp của phụ nữ tại Việt Nam theo yêu cầu của CEDAW và các khuyến nghị của ủy ban CEDAW. Xác định các thách thức từ thực tiễn thi hành pháp luật, nguyên nhân và đề xuất các giải pháp để vượt qua mọi thách thức, cũng như đưa ra các khuyến nghị nhằm cải thiện việc tiếp cận tư pháp của phụ nữ tại Việt Nam. Cung cấp các thông tin cập nhật cho Báo cáo quốc gia lần thứ 9 về pháp luật và thực hiện pháp luật về tiếp cận tư pháp của phụ nữ trong quá trình thực hiện CEDAW.
Tiếp tục hoàn thiện các quy định về quyền, nghĩa vụ, của người bị hại trong tố tụng hình sự
Tại hội thảo, dự thảo Báo cáo nghiên cứu về quyền tiếp cận tư pháp của phụ nữ phù hợp với Công ước CEDAW được các đại biểu bàn thảo đi đến các kết luận và những đề xuất. Cụ thể, đối chiếu với 6 tiêu chí của một hệ thống tư pháp đảm bảo quyền tiếp cận tư pháp của phụ nữ theo các khuyến nghị của CEDAW bao gồm: Tính tài phán, tính sẵn có, tính dễ tiếp cận, chất lượng tốt, có các biện pháp đền bù (bồi thường) thoả đáng và trách nhiệm giải trình cao, có thể thấy hệ thống tư pháp, bổ trợ tư pháp của Việt Nam hiện nay tuy còn những hạn chế nhưng đã và đang được xây dựng, hoàn thiện nhằm tiệm cận gần hơn với các chuẩn mực chung trong điều kiện kinh tế, xã hội, văn hoá cụ thể của đất nước.
Từ pháp luật đến thực thi pháp luật là một khoảng cách không nhỏ thông qua nhận thức, hành vi của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức, cơ quan trong các mối quan hệ quyền, nghĩa vụ đan xen và dưới tác động của các yếu tố văn hoá truyền thống "trọng nam khinh nữ" tạo nên những bất bình đẳng, sự phân biệt đối xử trên thực tế tiếp cận tư pháp của phụ nữ ở Việt Nam.
Báo cáo cũng đã tập trung nhận diện, phân tích các rào cản tiếp cận tư pháp của phụ nữ nhìn từ cả ba góc độ, đó là: Rào cản do chính nhận thức và năng lực của phụ nữ trong việc thực hiện, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình; Rào cản do nhận thức, năng lực và hành động của các cơ quan tư pháp trong khi thi hành các nhiệm vụ hiến định nhằm thực thi công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, đặc biệt là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhóm phụ nữ yếu thế- nạn nhân của bạo lực gia đình, bạo lực trên cơ sở giới; Rào cản do nhận thức và năng lực, ý thức trách nhiệm xã hội của các luật sư, các trợ giúp viên pháp lý trong khi thực hiện chức năng tư vấn, hỗ trợ người dân, đặc biệt là những người yếu thế về hiểu biết pháp luật và về cách thức sử dụng pháp luật để bảo vệ qyền lợi của mình.
Về một số gợi mở giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về tiếp cận tư pháp của phụ nữ được các đại biểu đề xuất: Về pháp luật: Ban hành những quy định chi tiết, minh bạch hơn để tạo sự hiểu và áp dụng thống nhất các thuật ngữ, khái niệm then chốt liên quan đến quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực tư pháp, về các vi phạm pháp luật, tội phạm xâm phạm nhân phẩm, danh dự, tính mạng, sức khoẻ của phụ nữ. Rà soát để tiếp tục hoàn thiện các quy định về quyền, nghĩa vụ, của người bị hại trong tố tụng hình sự, hành chính theo hướng giảm nhẹ nghĩa vụ chứng minh; các quy định về thủ tục tố tụng đặc biệt mang tính riêng tư, bảo mật, thân thiện trong giải quyết, xử lý các vụ việc liên quan đến nhạy cảm giới. Sửa đổi, bổ sung các quy định về trách nhiệm giải trình của các cơ quan, chức danh tư pháp trong việc giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến bảo đảm bình đẳng giới thực chất trong hoạt động tư pháp.
Về tổ chức thi hành pháp luật: Nâng cao nhận thức, năng lực thực hiện và tự bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, đặc biệt và phụ nữ, các nhóm yếu thế. Xây dựng các án lệ, các vụ việc điển hình về tiếp cận tư pháp của phụ nữ để hướng dẫn, rút kinh nghiệm chung giữa các cơ quan tư pháp. Xây dựng đội ngũ các chức danh tư pháp được tập huấn chuyên biệt về hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực bình đẳng giới, bạo lực giới, bạo lực gia đình… đồng thời có chính sách thu hút các chuyên gia, các nhà hoạt động xã hội trong việc tham gia vào các quá trình tiếp cận tư pháp của các nhóm đặc thù, yếu thế. Đầu tư cơ sở vật chất phù hợp với yêu cầu đặc thù của tố tụng tư pháp đối với các đối tượng đặc thù (phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật…). Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin nhằm tạo thuận lợi cho việc tiếp cận các cơ quan tư pháp, quá trình tố tụng tư pháp; xây dựng các cơ sở dữ liệu thông tin và chia sẻ thông tin liên quan đến tiếp cận tư pháp của các đối tượng đặc thù…
Kết luận tại hội thảo, Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà cho biết, dự thảo báo cáo sẽ được chỉnh sửa, bổ sung và hoàn thiện, góp phần phục vụ cho việc xây dựng Báo cáo quốc gia lần thứ 9 về tình hình thực hiện Công ước CEDAW tại Việt Nam.