THỨ SÁU, NGÀY 22 THÁNG 11 NĂM 2024 06:31

Nới "trần" giờ làm thêm lên 60 giờ mỗi tháng

Báo cáo thêm tại phiên làm việc, Bộ trưởng Bộ LĐ-TB-XH Đào Ngọc Dung một lần nữa nhấn mạnh rằng việc đề xuất nâng giờ làm thêm căn cứ nhu cầu của người lao động và doanh nghiệp. Hơn nữa, thực tế do sức ép đơn hàng nên doanh nghiệp vẫn “ngấm ngầm” thoả thuận trực tiếp với người lao động để tiến hành làm thêm, dẫn đến quyền lợi của người lao động không được bảo đảm.

Bày tỏ đồng tình với ý kiến của cơ quan thẩm tra là Ủy ban Xã hội về hầu hết các nội dung, tuy nhiên, về thời giờ làm thêm, Bộ trưởng  Đào Ngọc Dung đề nghị cho giữ phương án như dự thảo là thời gian làm thêm giờ trong tháng không quá 72 giờ.

Lý do đề xuất giữ nguyên thời gian làm thêm giờ như vậy vì nghị quyết chỉ quy định về trần tối đa các bên có thể thỏa thuận để làm thêm giờ chứ không phải đó là thời gian làm thêm giờ người lao động phải thực hiện.

Bộ trưởng Đào Ngọc Dung báo cáo tại Phiên họp chiều 23/3

Bộ trưởng Đào Ngọc Dung báo cáo tại Phiên họp chiều 23/3

Ngoài ra, theo Bộ LĐ-TB&XH, nguyên tắc của pháp luật lao động đã được quy định khi làm thêm giờ phải trên cơ sở thỏa thuận bình đẳng, công khai, không áp đặt; đảm bảo sức khỏe và điều kiện lao động lâu dài cho người lao động; được trả công tương xứng. Trên thực tế, căn cứ vào yêu cầu công việc, sức khỏe, điều kiện của người lao động, người lao động và người sử dụng lao động có thể thỏa thuận làm thêm ở mức 40 giờ, 45 giờ, 50 giờ hay 60 giờ và tối đa là được 72 giờ trong 1 tháng.

Thực tế nhiều ngành, hiệp hội doanh nghiệp đề nghị nâng giới hạn làm thêm trong tháng, thậm chí đề nghị bỏ giới hạn làm thêm trong tháng, do đã có giới hạn làm thêm trong ngày và trong năm. Còn theo quy định hiện hành tại Điều 107 Bộ luật Lao động, doanh nghiệp được phép sử dụng người lao động trên cơ sở thỏa thuận để làm thêm giờ không quá 4 giờ/ngày. Trong trường hợp bỏ quy định giới hạn làm thêm giờ trong tháng thì theo quy định giờ làm thêm trong ngày, mỗi tháng người lao động cũng chỉ làm thêm tối đa được 104 giờ với 26 ngày công. 

“Như vậy, mức 72 giờ/tháng được đề xuất tại dự thảo Nghị quyết là ở mức trung bình của đề xuất của người sử dụng lao động (104 giờ/tháng) và quy định pháp luật hiện hành (40 giờ); đồng thời đây cũng là mức trung bình của các nước trong khu vực Châu Á. Mức này cũng chỉ được đề xuất áp dụng thời gian ngắn, trong bối cảnh phòng, chống dịch Covid-19 và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội", báo cáo của Bộ LĐ-TB&XH cho hay.

Trình bày báo cáo giải trình tiếp thu và chỉnh lý dự thảo Nghị quyết,  Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thuý Anh cho biết có 2 loại ý kiến về mức trần thời gian làm thêm giờ trong tháng, cụ thể:

 Loại ý kiến thứ nhất cho rằng việc nâng trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng lên mức không quá 72 giờ là quá cao; đề nghị chỉ nâng trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng từ không quá 40 giờ lên không quá 60 giờ, tương ứng với việc được áp dụng thời gian làm thêm tối đa trong 1 năm từ 200 giờ lên không quá 300 giờ (150%).

Loại ý kiến thứ hai đồng tình nâng trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng từ không quá 40 giờ lên không quá 72 giờ.  

Do còn 2 loại ý kiến khác nhau, theo sự chỉ đạo của lãnh đạo Quốc hội, Thường trực Ủy ban Xã hội đã xin ý kiến thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội về 2 phương án này. Kết quả: 13/18 thành viên tán thành phương án 1; 5/18 thành viên tán thành phương án 2. 

Trên cơ sở kết quả biểu quyết, Thường trực Ủy ban Xã hội đã tiếp thu ý kiến của đa số thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội và thể hiện dự thảo: "Trường hợp người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm tối đa 300 giờ trong 1 năm có nhu cầu và được sự đồng ý của người lao động thì được sử dụng người lao động làm thêm trên 40 giờ nhưng không quá 60 giờ trong 01 tháng".

Ngoài ra, theo Ủy ban Xã hội của Quốc hội, nhiều ý kiến đồng tình với việc mở rộng đối tượng áp dụng thời giờ làm thêm trong năm không quá 300 giờ và đề nghị loại trừ những đối tượng lao động đặc biệt như người lao động chưa thành niên từ 15-18 tuổi, người khuyết tật, phụ nữ đang mang thai, nuôi con nhỏ, người làm nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.

Tiếp thu ý kiến trên, Ủy ban Xã hội và cơ quan chủ trì soạn thảo thống nhất chỉnh lý dự thảo theo hướng bổ sung các trường hợp không làm thêm giờ với người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi; người lao động là người khuyết tật nhẹ suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên, khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; người lao động làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm  hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm…

Toàn cảnh Phiên họp

Toàn cảnh Phiên họp

Sau khi thảo luận, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết với 100% thành viên tán thành.

Theo đó, trường hợp người sử dụng lao động có nhu cầu và được sự đồng ý của người lao động thì được sử dụng người lao động làm thêm trên 200 giờ nhưng không quá 300 giờ trong 1 năm.

Có 5 trường hợp không được áp dụng tăng giờ làm thêm, gồm: Người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi; Người lao động là người khuyết tật nhẹ suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên, khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; Người lao động làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm  hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; Lao động nữ mang thai từ tháng thứ 7 hoặc từ tháng thứ 6 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; Lao động nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Ngoài ra, không áp dụng quy định này đối với trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 107 của Bộ luật Lao động.

Về số giờ làm thêm trong 1 tháng, Nghị quyết nêu rõ nếu khi người sử dụng lao động có nhu cầu và được sự đồng ý của người lao động thì làm thêm trên 40 giờ nhưng không quá 60 giờ trong 1 tháng.

Nghị quyết có hiệu lực bắt đầu từ 1/4/2022; quy định về thời giờ làm thêm trong 1 năm có hiệu lực từ ngày 1/1/2022.

CHÂU GIANG

CÙNG CHUYÊN MỤC
Xem theo ngày
Báo dân sinh
Báo dân sinh
Báo dân sinh