Nhiệm kỳ 2016-2020: Việt Nam đạt nhiều dấu ấn đặc biệt, nâng cao vị thế đất nước
- Tây Y
- 23:18 - 18/01/2021
Việt Nam thuộc nhóm tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới
Kinh tế vĩ mô ổn định, tốc độ tăng trưởng khá cao (giai đoạn 2016 - 2020 tăng trưởng bình quân khoảng 6,0%/năm), thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất trong khu vực và thế giới; chất lượng tăng trưởng được cải thiện, quy mô và tiềm lực nền kinh tế được nâng lên (năm 2020, GDP ước đạt gần 300 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người ước đạt gần 3.000 USD/người/năm, năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn 2011 - 2015 lên 5,8%/năm giai đoạn 2016 - 2020).
Năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam tăng nhanh, xếp thứ 67/141 nền kinh tế (năm 2019). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, phù hợp với quy luật khách quan. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, chiếm tỷ trọng 43% GDP, đã trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh, thu hút được nhiều dự án quy mô lớn, công nghệ cao. Kim ngạch xuất, nhập khẩu tăng từ 157,1 tỷ USD (năm 2010) lên khoảng 566 tỷ USD (năm 2020).
Đã xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với các công trình hiện đại, nhất là hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn. Hạ tầng thông tin và truyền thông phát triển mạnh, đã phủ sóng thông tin di động đến 98% số người dân với công nghệ hiện đại.
Đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ngày càng phong phú, có chất lượng tốt hơn. Xã hội hóa các hoạt động văn hóa được mở rộng. Hoạt động giao lưu, quảng bá văn hóa Việt Nam được thực hiện chủ động, tích cực. Chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục, đào tạo và dạy nghề được nâng lên; xếp hạng đại học tăng 12 bậc, từ hạng 80 lên 68; tuổi thọ trung bình tăng từ 72,9 tuổi (năm 2010) lên 73,7 tuổi (năm 2020); chỉ số phát triển con người (HDI) liên tục được cải thiện, xếp thứ 116/189 quốc gia, thuộc nhóm các nước có mức phát triển con người trung bình cao của thế giới. Chất lượng nguồn nhân lực có sự cải thiện đáng kể, tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 40% (năm 2010) lên khoảng 65% (năm 2020). Tiềm lực khoa học, công nghệ quốc gia được tăng cường; chỉ số đổi mới, sáng tạo toàn cầu của Việt Nam (chỉ số GII) liên tục được cải thiện, từ vị trí thứ 59 (năm 2016) lên thứ 42 (năm 2020) trên 131 quốc gia và nền kinh tế, tiếp tục dẫn đầu trong nhóm quốc gia có cùng mức thu nhập trung bình thấp.
Một loạt quyết sách quan trọng về kinh tế của Đảng
Những kết quả, thành tựu đạt được trong năm 2020 nói riêng và 5 năm qua nói chung có nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan, nhưng quan trọng nhất là có sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp uỷ, tổ chức đảng trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, xử lý kịp thời, có hiệu quả nhiều vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn.
Dấu ấn lãnh đạo kinh tế của Đảng trong nhiệm kỳ này được thể hiện rõ nét thông qua các cương lĩnh, chiến lược và văn kiện chính thức Đại hội Đảng toàn quốc khóa XII, cũng như một loạt quyết sách quan trọng khác được Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị ban hành.
Qua đó nhằm tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, trên nền tảng đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, chất lượng nguồn nhân lực, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ và chủ động hội nhập quốc tế.
Trung ương đã ban hành một loạt các Nghị quyết quan trọng:
- Nghị quyết số 10 tạo động lực phát triển kinh tế tư nhân – Nghị quyết có thể coi là đột phá trong tư duy, giúp kinh tế tư nhân phát triển lành mạnh, hiệu quả, thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế.
- Nghị quyết số 11 về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm hoàn thiện và định hình rõ nét hơn đường lối phát triển này.
- Nghị quyết số 23 về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
- Nghị quyết số 52 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ Tư.
- Nghị quyết số 55 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Trong 5 năm qua, nhiều "điểm nghẽn" về thể chế đã được Chính phủ phát hiện, xử lý. Nhiều khó khăn, vướng mắc trong hoạt động đầu tư, kinh doanh được tháo gỡ. Cải cách thủ tục hành chính được đẩy mạnh. Trong nhiệm kỳ, cùng với việc Đảng ta đã ban hành Nghị quyết về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, Chính phủ đã phát động thành công 3 đợt sóng cải cách hành chính lớn. Năm 2016, xóa bỏ hàng ngàn giấy phép con.
Năm 2018, cắt giảm, đơn giản hóa hơn 50% điều kiện kinh doanh và thủ tục hành chính kiểm tra chuyên ngành. Nhờ những nỗ lực lớn mà chúng ta đã đạt được những kết quả rất nổi bật. Việt Nam tăng 20 bậc về môi trường kinh doanh, tăng 10 bậc về năng lực cạnh tranh theo các bảng xếp hạng toàn cầu.
Khoảng cách điểm số về môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh của nước ta so với nhóm các nước dẫn dầu ASEAN đang thu hẹp lại.
Mở rộng quan hệ quốc tế, nâng tầm vị thế đất nước
Việt Nam chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, trở thành bạn, đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần nâng cao vị thế và uy tín của mình trên trường quốc tế. Việt Nam đã tham gia có hiệu quả vào các định chế khu vực và toàn cầu, nhất là các hiệp định thương mại (FTA) thế hệ mới và đóng góp tích cực ở hầu hết các tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, đảm nhiệm thành công nhiều trọng trách, ghi đậm dấu ấn về sự chủ động, tích cực trong vai trò Chủ tịch luân phiên lần thứ hai của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 2020 và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021. Việt Nam đã trở thành tâm điểm chú ý của toàn cầu với vị trí, uy tín cao trong năm 2020. Việt Nam được thế giới đánh giá là "ngôi sao sáng của châu Á", được xếp vào Top 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới.
Có thể thấy trong suốt nhiệm kỳ khóa XII vừa qua, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước có biết bao nhiêu biến động khó lường; bao nhiêu khó khăn, thử thách, nhưng Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã đoàn kết một lòng, với quyết tâm và nỗ lực rất cao, hoàn thành toàn bộ chương trình công tác toàn khóa đề ra, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta giành được những kết quả rất quan trọng, để lại nhiều dấu ấn nổi bật.
Nhiều "thành tựu kép" mà Việt Nam đã đạt được trong nhiệm kỳ 2015-2020, như: "Thuận ý Đảng - hợp lòng dân", "Vừa phát triển kinh tế - xã hội, vừa đẩy mạnh chỉnh đốn, xây dựng Đảng", "Ổn định kinh tế vĩ mô - duy trì đà tăng trưởng", "Đẩy lùi dịch bệnh mà vẫn lo được sinh kế cho nhân dân"… Đúng như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng từng nói: "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay"...