Nghị quyết 37 giúp thay đổi diện mạo khu vực trung du, miền núi phía Bắc
- Tây Y
- 21:07 - 25/09/2019
Sáng 25/9 tại Hà Nội, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) đã tổ chức Hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01/7/2004 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ (TDMNBB).
PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn, Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương và Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Lê Tấn Dũng chủ trì Hội nghị. Hội nghị có sự tham gia của đại diện một số Bộ, ngành Trung ương và lãnh đạo các tỉnh miền núi, trung du phía Bắc.
Nghị quyết thúc đẩy tạo việc làm, giảm nghèo, nâng cao chất lượng nhân lực
Báo cáo tại hội nghị cho biết có 3 chỉ tiêu chủ yếu đã đạt được những kết quả quan trọng sau 15 năm thực hiện Nghị quyết. Trong đó, riêng về phát triển thị trường lao động, giải quyết việc làm giai đoạn 2005-2018, cơ bản hoàn thành tốt theo kế hoạch đặt ra. Cụ thể, giai đoạn 2006 - 2018, giải quyết việc làm cho 2,174 triệu lao động; 6 tháng đầu năm 2019, giải quyết cho 710.000 lao động. Hoạt động vay vốn tạo việc làm từ quỹ Quốc gia về việc làm tiếp tục góp phần quan trọng hỗ trợ tạo và tự tạo việc làm cho người lao động.
Từ năm 2010 đến hết tháng 4/2019, các Trung tâm dịch vụ việc làm đã tư vấn, giới thiệu việc làm cho 291.816 lượt người thất nghiệp (giai đoạn 2014 – 2018 là 243.250 lượt người), giải quyết hỗ trợ học nghề cho 3.856 người (giai đoạn 2014 – 2018 hỗ trợ cho 3.193 người). Tỷ lệ lao động qua đào tạo của vùng tăng đều qua từng năm (năm 2014: 39,64%, năm 2015: 41,66%, năm 2016: 42,79%, năm 2017: 45,29%, năm 2018: 47,31%).
Trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giai đoạn 2004 - 2008: Số lượng cơ sở dạy nghề của vùng chiếm 16% của cả nước với 94 cơ sở dạy nghề. Giai đoạn 2009 đến 2013: Tỷ lệ cơ sở dạy nghề trong vùng so với cả nước tăng không đáng kể (chiếm 17,6%); tuy nhiên, số lượng cơ sở dạy nghề tăng 2,5 lần đạt 247 cơ sở (năm 2013), đặc biệt là số lượng trường cao đẳng tăng 2,5 lần. Từ năm 2014 đến nay, toàn vùng có 301 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, chiếm 16% số cơ sở giáo dục nghề nghiệp cả nước. Trong đó, có 04 trường đã được lựa chọn để ưu tiên hỗ trợ đầu tư tập trung, đồng bộ theo tiêu chí của trường nghề chất lượng cao vào năm 2020.
Chất lượng và hiệu quả đào tạo trình độ các trình độ có bước chuyển biến tích cực, người học sau khi tốt nghiệp có việc làm đúng ngành, nghề đào tạo đạt tỷ lệ cao và có thu nhập ổn định. Đào tạo từng bước chuyển từ hướng "cung" sang hướng "cầu", gắn với nhu cầu nguồn nhân lực, nhu cầu sử dụng lao động, góp phần đáp ứng nhu cầu nhân lực qua đào tạo và phát triển kinh tế - xã hội cho vùng. Tỷ lệ lao động nông thôn sau đào tạo có việc làm mới hoặc tiếp tục làm nghề cũ nhưng năng xuất, thu nhập cao hơn đạt 86,5%.
Công tác giảm nghèo, an sinh xã hội là điểm khá nổi bật. Từ nguồn lực đầu tư của nhà nước thông qua các chính sách và chương trình giảm nghèo, người nghèo đã tiếp cận thuận tiện hơn các chính sách trợ giúp của nhà nước; đời sống của người nghèo được từng bước cải thiện, an sinh xã hội, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Tỷ lệ nghèo các tỉnh vùng giảm nhanh, từ 38,72% (2005) xuống còn 31,38% (2010); 25,77% (2015) và 15,82% (2018). Tỷ lệ nghèo ở các huyện nghèo giảm bình quân 5,5%/năm, các xã nghèo giảm bình quân từ 3-4%/năm. Đến hết năm 2018, toàn vùng có 07 huyện thoát nghèo và được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen, 72 xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong khu vực đạt chuẩn nông thôn mới.
Cùng với đó, việc tổ chức thực hiện chính sách trợ giúp các đối tượng xã hội có nhiều đổi mới. Đến năm 2018, vùng trung du miền núi phía Bắc có gần 700.000 người hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, kinh phí trợ giúp xã hội hàng tháng, cấp thẻ bảo hiểm y tế đạt gần 4.000 tỷ đồng. Có gần 5.000 đối tượng được nuôi dưỡng tại các cơ sở trợ giúp xã hội, với mức nuôi dưỡng bình quân 1,2 triệu đồng/người/tháng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, theo Thứ trưởng Lê Tấn Dũng, trung du miền núi phía Bắc vẫn là vùng nghèo, điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
"Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ cao, có tỉnh hơn 90% hộ nghèo rơi vào hộ dân tộc thiểu số như Hà Giang, Cao Bằng, Lai Châu. Tỷ lệ tái nghèo và phát sinh nghèo tương đối cao", Thứ trưởng Lê Tấn Dũng cho biết.
Chất lượng lao động là người dân tộc thiểu số của vùng còn thấp nên khả năng giải quyết việc làm tại chỗ, nâng cao chất lượng việc làm chưa cao. Đáng chú ý, tệ nạn ma túy vẫn còn diễn biến phức tạp, người nghiện ma túy chưa được lập hồ sơ quản lý còn nhiều, tỷ lệ cai nghiện hiệu quả thấp, tái nghiện cao, số người mới mắc nghiện ma túy tổng hợp có chiều hướng gia tăng.
Tại Hội nghị, Thứ trưởng Lê Tấn Dũng khẳng định, sau 15 năm thực hiện Nghị quyết 37, các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Lao động - Thương binh và Xã hội liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh của vùng đã được ngành triển khai cơ bản có hiệu quả. Nhiều mục tiêu, chỉ tiêu cơ bản đã hoàn thành và vượt so với kế hoạch đề ra, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển giai đoạn của toàn vùng.
Để có những kết quả trên,là sự nỗ lực của các Cục, Vụ, Tổng cục của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng như các ban ngành chức năng, đặc biệt các địa phương đã có sự nỗ lực, phối hợp rất chặt chẽ trong quá trình triển khai thực hiện nghị quyết, đặc biệt trong công tác lao động, xã hội và người có công.
Hướng tới mục tiêu giảm nghèo bền vững, không để ai bị bỏ lại phía sau
Tại Hội nghị, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đề ra mục tiêu đến năm 2030: Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 70 - 75%; tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp giảm còn 45 - 50%. Phấn đấu hàng năm giảm bình quân 1,5% hộ nghèo (riêng các huyện nghèo/ xã nghèo giảm 4%; hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm 3-4%).
Đến năm 2030: 100% đối tượng gặp khó khăn đột xuất được trợ giúp kịp thời; nâng mức trợ cấp xã hội hàng tháng; có chính sách trợ giúp đối với trẻ em dưới 36 tháng tuổi, phụ nữ mang thai thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn sống ở vùng núi, vùng hải đảo, vùng dân tộc thiểu số; tiếp tục mở rộng diện người cao tuổi không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội của Nhà nước được hưởng trợ cấp xã hội. 80% người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội phù hợp với nhu cầu, trong đó tối thiểu 50% đối tượng được cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội toàn diện.
Giai đoạn 2025-2030, phấn đấu nâng quy mô tuyển sinh đạt trên 4,6 triệu người mỗi năm; ít nhất 85% người học có việc làm hoặc có năng suất, thu nhập cao hơn sau đào tạo; có 70 trường được công nhận trường chất lượng cao, trong đó có tối thiểu 5 trường đạt cấp độ các nước phát triển trong nhóm G20; 40 trường tiếp cận cấp độ các nước ASEAN-4; phấn đấu có tối thiểu 20% cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập tự chủ về tài chính.