Ngành LĐ-TB&XH: Hoàn thành các chỉ tiêu, bảo đảm an sinh xã hội
- Tra cứu sét nghiệm y khoa
- 18:15 - 25/12/2015
Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Phạm Thị Hải Chuyền nhấn mạnh, thực hiện nhiệm vụ của Đảng, Chính phủ giao, trong 5 năm qua (giai đoạn 2011-2015), Bộ LĐ-TB&XH đã nỗ lực trong tham mưu hoạch định chính sách và trong tổ chức, triển khai thực hiện chính sách, công tác lao động, người có công và xã hội đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận.
Sự kiện quan trọng và tác động nhiều nhất đến Ngành trong 05 năm qua, đó là: Bộ đã tham mưu xây dựng, hoàn thiện nhiều văn bản pháp luật về lĩnh vực lao động, người có công và xã hội. Đặc biệt, đây là nhiệm kỳ đặt dấu mốc cho việc phát triển, hoàn thiện chính sách an sinh xã hội từ góc độ tiếp cận bảo vệ quyền của con người.
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền phát biểu tại Hội nghị
Bên cạnh đó, bằng sự quyết tâm trong lãnh đạo, điều hành, sự nỗ lực phấn đấu của cán bộ, công chức, người lao động trong ngành, sự phối hợp tích cực của các cơ quan Trung ương và địa phương, việc triển khai các chỉ tiêu, nhiệm vụ của Ngành trong 5 năm qua đã cơ bản hoàn thành. Một số kết quả nổi bật như:
Cả nước đã tạo việc làm cho trên 7,8 triệu người;
Khoảng 8,6 triệu lao động được đào tạo, tăng gấp 3 lần so với giai đoạn trước, góp phần đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo cả nước lên 51,6% vào cuối năm 2015;
Đào tạo nghề Việt Nam đã ghi được dấu ấn trong các Kỳ thi tay nghề khu vực và thế giới, mà điểm nhấn là lần đầu tiên, học sinh Việt Nam đã giành được Huy chương Đồng tại Kỳ thi nghề thế giới lần thứ 43;
Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm bình quân khoảng 2% mỗi năm, từ 14,2% (cuối năm 2010) xuống dưới 4,5% (năm 2015). Riêng các huyện nghèo giảm khoảng 6% mỗi năm, từ 58,3% xuống còn 28%. Thành tựu về giảm nghèo của Việt Nam luôn là điểm sáng, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.
Lĩnh vực người có công được thực hiện tốt hơn nhờ sửa đổi nhiều chính sách theo hướng mở rộng đối tượng, nâng mức trợ cấp (hiện nay, mức chuẩn trợ cấp ưu đãi đã tăng lên 71,2% so với năm 2010); đồng thời huy động được nhiều nguồn lực, khơi dậy được sự tham gia, đóng góp của cộng đồng chung tay chăm sóc người có công với nhiều hình thức phong phú, đa dạng...
Nỗ lực nêu trên của Ngành đã góp phần hoàn thành mục tiêu chung của cả nước là “ổn định kinh tế vĩ mô…bảo đảm an sinh xã hội”.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển hệ thống trợ giúp xã hội
Báo cáo tại Hội nghị về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2015 và 5 năm 2011-2015, Thứ trưởng Huỳnh Văn Tí cho biết, công tác chỉ đạo điều hành, tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ lĩnh vực lao động, người có công và xã hội luôn bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết, Chỉ thị của Quốc hội, Chính phủ; bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 – 2015 và thực tiễn của đất nước.
Thứ trưởng Huỳnh Văn Tí trình bày Báo cáo tại Hội nghị
Giai đoạn 2011-2015, đã tạo việc làm cho khoảng 7.827 nghìn người, đạt 97,8% mục tiêu đề ra đầu nhiệm kỳ và bằng 97,3% so với thực hiện giai đoạn 5 năm trước (2006-2010); mức lương tối thiểu vùng năm 2015 tăng bình quân trên 2,3 lần so với năm 2011. Thu nhập bình quân tháng từ việc làm chính của lao động làm công hưởng lương quý III/2015 là 4,61 triệu đồng, tăng khoảng 1,9 triệu so với năm 2010; đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tính đến tháng 10-2015 đạt trên 12,07 triệu người, chiếm trên 23% lực lượng lao động. Trên 9,9 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp, tăng 3,6 triệu so với cuối năm 2010; quan hệ lao động được cải thiện, tranh chấp lao động, đình công có xu hưởng giảm dần qua các năm. Trong thực hiện các chế độ, chính sách ưu đãi đối với người có công: Đã tổ chức chi trả đầy đủ, kịp thời, trợ cấp ưu đãi thường xuyên cho trên 1,4 triệu người có công, thực hiện đầy đủ các chính sách về chăm sóc sức khoẻ, trang cấp, ưu đãi giáo dục và các chính sách ưu đãi khác.
Các lĩnh vực công tác khác cũng đạt nhiều kết quả tích cực: Thực hiện đầy đủ, hiệu quả các chính sách giảm nghèo. Bộ mặt nông thôn các xã nghèo được cải thiện rõ rệt; người nghèo được hỗ trợ cải thiện một bước về điều kiện sống, tiếp cận tốt hơn các chính sách và nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng, đời sống được nâng lên; thực hiện tốt chính sách trợ giúp các đối tượng xã hội, mở rộng đối tượng thụ hưởng và nâng dần mức trợ cấp cho đối tượng bảo trợ xã hội; xây dựng nhân rộng các mô hình hiệu quả về bảo vệ, chăm sóc trẻ em; bình đẳng giới trong lao động việc làm, giáo dục đào tạo, chăm sóc y tế, lãnh đạo, quản lý ngày càng có những cải thiện đáng kể. Tỷ lệ phụ nữ tham gia điều hành, quản lý doanh nghiệp đạt hơn 20% là tỷ lệ khá cao so với khu vực và thế giới. Việt Nam cũng nằm trong nhóm có tỷ lệ nữ đai biể Quốc hội cao trong khu vực và trên thế giới; công tác cai nghiện phục hồi, phòng chống mại dâm được quan tâm chỉ đạo thực hiện....
Trong khi đó, đưa ra mục tiêu mà ngành đặt ra cho năm 2016 và 5 năm 2016-2020, Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền nhấn mạnh, nhiệm vụ 5 năm tới và kế hoạch năm 2016 có ý nghĩa bản lề, mở đầu cho việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2016 - 2020. Việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra sẽ tạo đà cho các năm tiếp theo để hoàn thành mục tiêu kế hoạch 5 năm.
Mục tiêu mà ngành đặt ra cho năm 2016 và 5 năm 2016-2020 là nâng cao chất lượng và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực góp phần nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển hệ thống trợ giúp xã hội đa dạng, toàn diện, bảo đảm bền vững, công bằng bình đẳng, tạo nền ổn định thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Trong đó, Ngành sẽ tập trung vào các nhiệm vụ chủ yếu sau:
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường lao động trong nước và trong điều kiện hội nhập quốc tế
Đẩy mạnh giải quyết việc làm thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội cụ thể của từng địa phương, từng vùng, miền theo hướng bền vững, nâng cao chất lượng việc làm; cải thiện môi trường cạnh tranh và thúc đẩy phát triển doanh nghiệp nhằm tạo nhiều việc làm ổn định.
Mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, nhất là các thị trường có thu nhập cao, an toàn cho người lao động. Tăng cường công tác quản lý, bảo vệ quyền lợi của người lao động làm việc ở nước ngoài.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quan hệ lao động, chính sách lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, an toàn, vệ sinh lao động.
Tiếp tục thực hiện lộ trình cải cách tiền lương; đổi mới cơ chế quản lý tiền lương đối với khu vực doanh nghiệp theo hướng gắn với năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh.
Tăng cường quản lý nhà nước về công tác an toàn - vệ sinh lao động: Kiểm tra, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động;
Thực hiện đồng bộ, hiệu quả các dự án phát triển dạy nghề, đào tạo nghề cho lao động nông thôn nhằm phát triển dạy nghề nhanh về quy mô đi đôi với nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy nghề ở 3 cấp trình độ, nhất là đào tạo nghề chất lượng cao
Nghiên cứu, hoàn thiện chính sách ưu đãi người có công. Thực hiện đầy đủ chế độ, chính sách đã ban hành cho đối tượng người có công.
Thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020; đẩy mạnh thực hiện các chính sách, chương trình, dự án giảm nghèo theo hướng tiếp cận đa chiều, tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của đối tượng thụ hưởng và sự tham gia của người nghèo.
Thực hiện đầy đủ các chính sách trợ giúp xã hội đã ban hành; từng bước mở rộng đối tượng thụ hưởng chính sách trợ giúp xã hội, nâng dần mức trợ cấp xã hội thường xuyên và mức nuôi dưỡng tập trung tại các cơ sở bảo trợ xã hội phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến trẻ em nhằm tạo môi trường luật pháp đầy đủ, thân thiện với trẻ em và môi trường xã hội phù hợp với trẻ em; Từng bước giảm khoảng cách chênh lệch về điều kiện sống giữa các nhóm trẻ em và trẻ em giữa các vùng, miền. Nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo cơ hội phát triển bình đẳng cho mọi trẻ em.
Tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng thành các chính sách, pháp luật đối với phụ nữ, công tác phụ nữ và bình đẳng giới;
Sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật về dự phòng và điều trị nghiện; phòng, chống mại dâm, Nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn nghiện hút ma tuý, mại dâm.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Rà soát, phối hợp chặt chẽ với địa phương để giải quyết ngay các chính sách cho NCC Phát biểu chỉ đạo Hội nghị, Phó Thủ tướng Chính Phủ Vũ Đức Đam nhấn mạnh, 5 năm qua, chúng ta có quyền tự hào về những phấn đấu nỗ lực của các cấp ngành, các hội nghề nghiệp… đã dành nguồn lực phát triển, lo cho con người, xã hội. Những kết quả của ngành LĐ-TB&XH đạt được mang tính toàn diện, đúng như báo cáo đánh giá. Phó Thủ tướng nhìn nhận, thời gian tới, các lĩnh vực của ngành LĐ-TB&XH là lĩnh vực rộng lớn, đòi hỏi sự chung tay giải quyết của nhiều bộ ngành. "Đơn cử về lĩnh vực lao động, hàng năm hàng nghìn sinh viên ra trường, để giải quyết nhu cầu việc làm, không thể giải quyết ngay trong thời gian ngắn. Chúng ta phải rà soát lại, chuyển đổi, tự chủ, gắn kết chặt chẽ hơn với thị trường lao động. Tập trung đổi mới thực chất đề án đào tạo nghề cho nông dân, nông thôn. Chỉ mở lớp khi người dân có nhu cầu, chứ không phải học chỉ để mà học. Phải thật thực chất", Phó Thủ tướng nói Về lĩnh vực chăm lo, giải quyết chế độ chính sách cho người có công, Phó Thủ tướng lưu ý, đây là lĩnh vực đặc thù của nước ta. Chiến tranh qua đi mấy chục năm, qua rà soát, vẫn còn có những người xứng đáng hưởng chế độ nên Bộ phải phối hợp với địa phương chặt chẽ, để giải quyết sớm, giải quyết ngay. Về trợ giúp xã hội, Phó thủ tướng Vũ Đức Đam đánh giá, 5 năm vừa qua Bộ tiếp cận đúng, theo các đối tượng trong xã hội. Như người cao tuổi, Việt Nam sẽ là nước có tỷ lệ già hóa nhanh nhất, nên chúng ta đã có những chuẩn bị tốt để không gặp khó khăn cho việc đảm bảo an sinh cho người cao tuổi. Băn khoăn về tỉ lệ người dân tham gia bảo hiểm xã hội hiện nay chưa cao, Phó Thủ tướng cho rằng, để hệ thống bảo hiểm có độ bao phủ rộng khắp. Ngoài chính sách ra còn là tâm lý xã hội, nên chúng ta phải cùng vào cuộc. "Đứng trước thách thức lớn, không chỉ là chính sách, mà còn đòi hỏi sự vào cuộc của truyền thông để tác động, thay đổi nhận thức của xã hội; có tính thúc đẩy, có tính lôi kéo. Chỉ khi người dân cùng ý thức tham gia, thì mới có độ bao phủ BHXH rộng khắp", Phó Thủ tướng gợi ý.
|
Các chỉ tiêu chủ yếu giai đoạn 2016- 2020 và năm 2016 Chỉ tiêu Quốc hội giao Tỷ lệ thất nghiệp thành thị dưới 4%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 65% vào năm 2020 năm 2016 là 53% (3). Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm bình quân khoảng 1-1,5%/năm; năm 2016 là 1,3 – 1,5% (riêng các huyện nghèo, xã nghèo giảm 4%). Chỉ tiêu kế hoạch ngành Giải quyết việc làm cho 7.500 - 8.000 nghìn người, gồm: Tạo việc làm trong nước cho 7.000 - 7.500 nghìn người; số người đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng 500 nghìn người). Năm 2016, giải quyết việc làm cho 1,5-1,6 triệu người lao động, gồm: giải quyết việc làm trong nước 1,4-1,5 triệu người; xuất khẩu lao động 100 nghìn người. - Tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội trong lực lượng lao động đạt 50% vào năm 2020, năm 2016 đạt 23 – 25%. - Tuyển mới 10.750 nghìn người ; năm 2016, tuyển mới dạy nghề 2,15 triệu người - Tốt nghiệp học nghề theo các trình độ đào tạo đạt 9.451 nghìn người; năm 2016 khoảng 1,887 triệu người Đến năm 2020 đảm bảo 99% hộ gia đình chính sách người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư nơi cư trú, năm 2016 là 98,5%; phấn đấu 100% xã, phường làm tốt công tác thương binh, liệt sỹ người có công, năm 2016 là 98,5%. 100% các đối tượng bảo trợ xã hội đủ điều kiện được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng; 85% các đối tượng người khuyết tật được tiếp cận tối thiểu 1 trong các dịch vụ xã hội, năm 2016 khoảng 81%. Đến năm 2020 có 90% trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được trợ giúp, năm 2016 khoảng 86%; 85% xã, phường, thị trấn đạt tiêu chuẩn xã phường, thị trấn phù hợp với trẻ em, năm 2016 khoảng 80%. Tỷ lệ số người nghiện được điều trị so với số người nghiện có hồ sơ quản lý đạt 90% vào năm 2020, năm 2016 là 74%; giảm tỷ lệ điều trị nghiện bắt buộc tại các trung tâm cai nghiện xuống còn 6%, năm 2016 là 17%; số người bán dâm được tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ xã hội khoảng 75.000 lượt người, năm 2016 là 15.000 người. |