Hạn chế chồng chéo, trùng lặp trong công tác dân tộc
- Tra cứu sét nghiệm y khoa
- 05:05 - 28/02/2016
Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại hội nghị. Ảnh: VGP/Lê Sơn
Tham dự Hội nghị có Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Giàng Seo Phử; Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát, đại diện các bộ, ngành, lãnh đạo tỉnh Lào Cai và 30 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh: Công tác dân tộc đi liền với chính sách dân tộc luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, coi trọng và đầu tư suốt từ ngày thành lập nước đến nay.
Phó Thủ tướng ghi nhận những thành tựu của công tác dân tộc 5 năm qua. Đó là, việc xây dựng thể chế, chính sách, pháp luật về công tác dân tộc ngày càng đồng bộ, hoàn thiện hơn với 154 chính sách cụ thể theo vùng, ngành, lĩnh vực và đạt được nhiều thành công. Nguồn lực thực hiện công tác dân tộc ngày càng phong phú, đa dạng, hiệu quả hơn. Đã chuyển một bước tư duy từ “cho không” sang cho vay ưu đãi để tạo động lực cho đồng bào nỗ lực vươn lên thoát nghèo. Công tác chỉ đạo, điều hành về công tác dân tộc có bước chuyển biến, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm. Kinh tế-xã hội vùng dân tộc và miền núi thay đổi rõ rệt, đời sống đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng khấm khá hơn. Đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc tâm huyết, trách nhiệm...
Mặc dù đã được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm, nhưng công tác dân tộc thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập, khó khăn, chồng chéo, đòi hỏi sự quan tâm, đầu tư hơn nữa để phát triển kinh tế-xã hội đối với đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi.
Chỉ rõ những hạn chế, Phó Thủ tướng cho rằng, có một số chính sách chồng chéo, nhiều chính sách không phù hợp, không đặc thù, chưa đồng bộ, nguồn lực bố trí của Nhà nước còn bất cập, chưa có cơ chế huy động nguồn lực xã hội đầu tư cho vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, vẫn còn một số địa phương chưa quan tâm đầu tư nguồn lực cho đồng bào dân tộc thiểu số, như có đến 9 địa phương chậm ban hành chiến lược về công tác dân tộc giai đoạn 2016-2020. Chênh lệch giàu nghèo ngày càng lớn. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp kém, chưa đạt yêu cầu, năng lực vận động của cán bộ cơ sở còn yếu...
Về nhiệm vụ thời gian tới, Phó Thủ tướng chỉ rõ: Cần nâng cao trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương đối với công tác dân tộc để xây dựng chính sách dân tộc sáng tạo, hiệu quả; rà soát lại chính sách dân tộc, tránh trùng lặp, kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách mới bảo đảm hiệu quả, thiết thực trong những năm tới; tăng cường nguồn lực, bố trí tập trung, không dàn trải, công khai minh bạch, chống tiêu cực trong việc thực hiện chính sách dân tộc; quy định cụ thể trách nhiệm với người đứng đầu trong công tác dân tộc; cán bộ làm công tác dân tộc phải sát dân hơn nữa để có tham mưu, kiến nghị thiết thực; đẩy mạnh tuyên truyền vận động với bà con dân tộc thiểu số để bà con đoàn kết, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đời sống, thay đổi nhận thức và hành vi cụ thể của bà con; tạo sự đoàn kết, xây dựng các tuyến biên giới thực sự hòa bình, hữu nghị, phát triển. Các địa phương không để dân đói, bỏ học, dịch bệnh xảy ra trong vùng đồng bào dân tộc và miền núi.
Phó Thủ tướng tham quan một số sản phẩm đặc trưng của vùng núi phía Bắc. Ảnh: VGP/Lê Sơn
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát cho rằng, hầu hết đồng bào dân tộc thiểu số là nông dân, sinh sống ở vùng khó khăn, dân trí thấp nên Bộ luôn coi trọng, tập trung nguồn đầu tư về phát triển nông nghiệp, nông thôn với nhiều chiến lược, 52 đề án chính sách và nhiều chương trình cụ thể, góp phần quan trọng vào nâng cao đời sống bà con, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện đã nảy sinh nhiều khó khăn, bất cập như sản xuất nông nghiệp hàng hóa kém phát triển, cơ sở hạ tầng nông nghiệp còn nhiều bất cập so với sản xuất hàng hóa quy mô lớn, diện tích canh tác phụ thuộc nước trời, trình độ sản xuất mang nặng tính truyền thống, tính tự phát cao, thiếu liên kết bền vững, thu nhập còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao...
Thời gian tới, việc đẩy mạnh phát triển tam nông là chủ trương lớn của Đảng, để rút ngắn khoảng cách giữa các vùng miền, chính sách nông nghiệp và phát triển nông thôn tập trung vào khắc phục các hạn chế nêu trên với kế hoạch hành động cụ thể. Đó là, phối hợp chỉ đạo khuyến khích phát triển nông nghiệp, lựa chọn, hướng dẫn đồng bào chuyển mạnh sang phát triển nông nghiệp hàng hóa, là con đường rộng mở để xóa đói giảm nghèo bền vững, hạn chế tự cung tự cấp, làm ra các sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao, áp dụng khoa học kỹ thuật, liên kết nông dân với các hình thức phù hợp, gắn sản xuất, chế biến với tiêu thụ của các doanh nghiệp. Đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới ở vùng miền núi, chuyển giao kỹ thuật đặc thù phù hợp, kể cả công nghệ cao cho bà con dân tộc thiểu số...
Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Giàng A Chu khẳng định, trong 5 năm qua, Chính phủ đã quan tâm sâu sắc đến đồng bào các dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa thông qua việc ban hành nhiều nghị quyết, quyết định, góp phần nâng cao đời sống bà con các dân tộc. Tuy vậy, vùng dân tộc trong thời gian tới còn nhiều khó khăn, thách thức bởi địa bàn nhiều vùng còn khác nhau, nên chính sách không thể cào bằng. Do đó, việc đổi mới chính sách với từng vùng khác nhau và cần đề ra các chính sách đặc thù để thực thi chính sách có hiệu quả.
Toàn cảnh hội nghị. Ảnh: VGP/Lê Sơn
Báo cáo của Ủy ban Dân tộc cho biết, hệ thống chính sách dân tộc giai đoạn 2011-2015 được xây dựng khá đồng bộ, bao phủ tất cả các lĩnh vực, địa bàn dân tộc và miền núi, được thể chế bằng các Nghị định, Nghị quyết của Chính phủ và các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ với 154 chính sách, thể hiện ở 243 văn bản, bao gồm cả Nghị định, Quyết định sửa đổi. Kinh phí để thực hiện các chính sách dân tộc được đa dạng hóa từ nhiều nguồn, trong đó ngân sách nhà nước là chủ yếu; ngoài ra còn nguồn vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp và ngân sách địa phương.
Trong 5 năm qua, ngân sách nhà nước đã bố trí đầu tư 135.800 tỉ đồng (chiếm 12,8% kinh phí đầu tư cho nông nghiệp nông thôn) để thực hiện các chính sách ở vùng dân tộc và miền núi. Riêng kinh phí bố trí thực hiện các chương trình, chính sách do Ủy ban Dân tộc trực tiếp quản lý là 27.144 tỉ đồng, chiếm 2,55% kinh phí đầu tư cho nông nghiệp nông thôn. Việc xây dựng chính sách, lập kế hoạch, phân bổ nguồn lực được công khai minh bạch và phân cấp cho địa phương tổ chức thực hiện; đã chuyển dần từ hỗ trợ trực tiếp cho hộ gia đình sang hỗ trợ cho cộng đồng, từ cho không sang cho vay, khắc phục dần tình trạng trông chờ, ỷ lại. Hệ thống chính sách dân tộc, trọng tâm là Chương trình 135 giai đoạn 3 thực hiện trên địa bàn 2.331 xã, 3.059 thôn, ở 415 xã biên giới và 190 xã ATK, đã đầu tư gần 20.000 công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu (đường giao thông, điện sinh hoạt, thủy lợi, trường học, trạm y tế, nhà sinh hoạt cộng đồng và chợ nông thôn), góp phần phát triển sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân, làm thay đổi rõ nét bộ mặt nông thôn vùng dân tộc và miền núi. Đến hết năm 2015, có 80 xã đặc biệt khó khăn của 23 tỉnh và 366 thôn bản của 30 tỉnh hoàn thành mục tiêu của Chương trình 135.
Tuy nhiên một số chính sách chưa phù hợp với đặc thù vùng dân tộc và miền núi cũng như yêu cầu của thực tiễn; chính sách ban hành trước và sau thiếu sự kết nối về nội dung; chính sách thường có mục tiêu lớn, thời gian thực hiện ngắn, gắn với nhiệm kỳ nên hiệu quả chưa cao. Mỗi chương trình, chính sách có cơ chế quản lý, thanh quyết toán riêng nên khó lồng ghép; thiếu cơ chế khuyến khích những địa phương, đơn vị thực hiện tốt chính sách dân tộc; sử dụng nguồn vốn đầu tư và vốn sự nghiệp chưa linh hoạt; chưa phát huy được nội lực của người dân. Bố trí vốn cho các chính sách chưa thể hiện rõ được tính ưu tiên, thiếu chủ động về kinh phí, chưa bảo đảm cho các mục tiêu và kế hoạch đã được phê duyệt. Đối với những chính sách do Ủy ban Dân tộc quản lý, nguồn vốn bố trí thường chỉ đáp ứng khoảng 40%-60% kế hoạch. Việc huy động nguồn lực từ ngân sách địa phương, từ cộng đồng còn ít. Phân công chủ trì, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số chính sách còn chồng chéo, trùng lắp về địa bàn và đối tượng. Một số văn bản quản lý, hướng dẫn thực hiện chính sách chưa kịp thời hoặc chậm được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế.