THỨ BẨY, NGÀY 23 THÁNG 11 NĂM 2024 12:55

Đầu Xuân gặp gỡ các Giám đốc Sở LĐ-TB&XH

 

Ông Khuất Văn Thành, Giám đốc Sở LĐ-TB&XH Hà Nội: Hà Nội chủ động đào tạo nguồn nhân lực khi Việt Nam tham gia TPP 

Trong 5 năm (2011- 2015), thông qua vốn vay từ Quỹ Việc làm quốc gia, công tác giải quyết việc làm ở Hà Nội hàng năm đều đạt 100% kế hoạch, riêng trong năm 2004 đạt 104% kế hoạch với 148.000/142.000 lao động được giải quyết việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 5% năm 2011, xuống dưới 4% năm 2015. Tuy nhiên chất lượng nguồn nhân lực vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của  nền kinh tế của Thủ đô, đặc biệt là nhu cầu về nguồn nhân lực trình độ cao. Số lao động được giải quyết việc làm hàng năm tăng song vẫn chưa đáp ứng được với nhu cầu việc làm của thị trường lao động. Công tác quản lý lao động,  nhất là ngoại tỉnh vẫn là những vấn đề phức tạp.  

Để thực hiện hiệu quả hơn nữa các mục tiêu lao động, việc làm và thị trường lao động trong giai đoạn 2016-2020, Hà Nội đã đề ra một số giải pháp cụ thể. Đó là tiếp tục thực hiện các giải pháp tuyên truyền, đẩy mạnh hoạt động sàn giao dịch việc làm cả về số lượng lẫn chất lượng, thực hiện toàn diện nội dung các Đề án đã được phê duyệt, tăng cường công tác vay vốn Quỹ quốc gia giải quyết việc làm, công tác xuất khẩu lao động 

Bên cạnh đó, Hà Nội cũng chủ động trong công tác đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, đào tạo nghề gắn với nhu cầu của thị trường lao động. Đặc biệt, trong thời gian tới khi Việt Nam tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hà Nội cam kết sẽ thực hiện tốt, hiệu quả trong công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm khi tham gia TPP. Ngoài ra Hà Nội cũng tạo nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, mở rộng kinh doanh, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động, trong đó tập trung vào các ngành, lĩnh vực như: May mặc, giầy da, thủy hải sản, lắp ráp điện tử...  

VL (ghi)

 

Bà Trần Thị Hoài Thanh, Giám đốc Sở LĐ-TB&XH Gia Lai: Đề ra các giải pháp cụ thể để thực hiện thành công các chỉ tiêu năm 2016

Năm 2015, công tác LĐ-TB&XH ở Gia Lai đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, hầu hết các chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch đề ra. Đã giải quyết việc làm cho 24.670/24.500 lao động, đạt 100,69% kế hoạch (tăng 2,5% so với năm 2014). Công tác đào tạo nghề được quan tâm đổi mới nội dung, phương thức đào tạo, nâng cao chất lượng dạy nghề gắn với nâng cao ý thức kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp. Gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng lao động qua đào tạo, giải quyết việc làm góp phần đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động.  

Giải quyết việc làm tại chỗ, nâng cao quỹ thời gian sử dụng lao động nông thôn.Về lĩnh vực người có công, nhờ làm tốt công tác phối hợp với các cấp, các ngành phát triển tốt 5 chương trình tình nghĩa; vận động toàn dân tham gia chăm sóc người có công nên bảo đảm mức sống của gia đình người có công bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của nhân dân nơi cư trú. 

Tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh trong năm đã giảm đi đáng kể - giảm 2,29% đưa tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh cuối năm xuống còn 11,67% (tiêu chí cũ) 

Năm 2016, là năm đầu tiên thực hiện các mục tiêu của Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XV và kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội 5 năm 2016 – 2020, Gia Lai đề ra mục tiêu giải quyết việc làm cho 24.500 người, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề là 30,2%, giảm tỷ lệ hộ nghèo đến cuối năm 2016 còn 10,25% theo tiêu chí cũ và xây dựng 172 xã, phường, thị trấn đạt tiêu chuẩn xã, phường phù hợp với trẻ em. 

Để đạt được mục tiêu đề ra, ngành LĐ-TB&XH đã tham mưu cho Tỉnh ủy xây dựng nghị quyết về công tác giảm nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số với những giải pháp cụ thể. Tạo nhiều việc làm và chú trọng nâng cao chất lượng việc làm theo hướng bền vững. Tiếp tục ổn định và mở rộng thị phần tại các thị trường hiện có, nhất là các thị trường có thu nhập cao, nâng cao chất lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tăng cường các hoạt động đào tạo nghề và tư vấn, giới thiệu việc làm.Tiếp tục đẩy mạnh tổ chức các phiên giao dịch việc làm, nhất là các phiên giao dịch việc làm lưu động tại các địa phương. Cùng với đó là triển khai thực hiện có hiệu quả các dự án thuộc chương trình dạy nghề gắn với việc thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Tuyển sinh đào tạo trung cấp nghề, sơ cấp nghề và dạy nghề cho lao động nông thôn đạt chỉ tiêu kế hoạch giao. Triển khai chương trình điều tra, rà soát liệt sĩ, mộ liệt sĩ và các công trình ghi công liệt sĩ. Đẩy mạnh các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”; “Xã, phường làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ và người có công” nhằm huy động mọi nguồn lực trong xã hội, cộng đồng cùng Nhà nước chăm sóc tốt hơn về đời sống vật chất, tinh thần của người có công.  

Với những giải pháp cụ thể, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, Bộ LĐ-TB&XH; sự phối hợp chặt chẽ và kịp thời của các sở, ban, ngành và các địa phương, chắc chắn năm 2016, công tác LĐ - TB&XH ở Gia Lai sẽ đạt và vượt chỉ tiêu đề ra.  

THU HÀ (ghi) 

 

Ông Trần Trung Dũng, Giám đốc sở LĐ - TB&XH TP. Hồ Chí Minh: Chú trọng nâng cao chất lượng nguồn lao động 

 Trong 6 chương trình đột phá của thành phố, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao luôn được xác định là mục tiêu số 1. Vì vậy, trong thời gian qua Thành ủy, HĐND, UBND thành phố đã quan tâm chỉ đạo Sở LĐ-TB&XH thực hiện tốt công tác đào tạo nghề trên địa bàn. Mạng lưới cơ sở dạy nghề được phát triển đa dạng về hình thức sở hữu và loại hình đào tạo, số lượng cơ sở tăng qua các năm. Năm 2011, thành phố có 409 cơ sở dạy nghề, đến 2015 tăng lên 433  cơ sở.  

Tổng kinh phí thành phố đầu tư cho công tác dạy nghề giai đoạn 2011 - 2015 là 5.425 tỷ. Trung bình đào tạo cho khoảng 300.000-400.000 học viên, số lượng đào tạo hàng năm đều đạt chỉ tiêu Nghị quyết, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 61% (2011) lên 72,39% năm 2015 (vượt 2,39%). 

Trong 5 năm, kết quả tuyển sinh dạy nghề của thành phố đạt hơn 1.847.000 sinh viên, học sinh; tỷ lệ học viên tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi tốt nghiệp gần 80%, thông qua đó đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của thành phố qua từng năm. 

Sở đã đề xuất và được Bộ công nhận 14 trường trên địa bàn thành phố có nghề trọng điểm giai đoạn 2011 - 2015 trong đó có 12 nghề cấp độ quốc tế, 7 nghề cấp độ khu vực ASEAN và 15 nghề cấp độ quốc gia. Đến 2015, có 6 cơ sở đào tạo nghề được phép liên kết, hợp tác với 12 đơn vị đào tạo ở nước ngoài như Mỹ, Anh, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, Hà Lan, Ấn Độ,... 

TP. Hồ Chí Minh xác định nhiệm vụ trọng tâm của đào tạo nghề trong những năm tới là sẽ đầu tư xây dựng các trường dạy nghề trọng điểm theo chuẩn các nước tiên tiến khu vực ASEAN để đào tạo các ngành nghề phục vụ lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ chất lượng cao; đẩy mạnh chương trình “đào tạo có địa chỉ”, bổ sung cơ chế, chính sách quản lý đào tạo nghề. Phấn đấu đạt chỉ tiêu tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề nghiệp đến năm 2020 đạt 85%. Thực hiện tuyển sinh đào tạo nghề trình độ cao đẳng nghề, trung cấp nghề giai đoạn 2016 – 2020 đạt 118.000 sinh viên, học sinh.         

Lê Hoàng 

 

Ông Nguyễn Quang Trường, Giám đốc Sở LĐ-TB&XH Đắk Lắk: Quyết liệt thực hiện các giải pháp bảo đảm an sinh xã hội 

 Đắk Lắk là một tỉnh còn nhiều khó khăn ở khu vực Tây Nguyên, dân di cư tự do khá đông. Trước đây đời sống của bà con gặp muôn vàn khó khăn, tỉ lệ hộ nghèo còn cao. Để góp phần giảm nghèo, nâng cao chất lượng sống cho đồng bào, ngành LĐ-TB&XH Đắk Lắk đã tham mưu cho các cấp chính quyền trong tỉnh và cùng bắt tay quyết liệt thực hiện các chính sách về an sinh xã hội, sắp xếp ổn định cuộc sống người di cư, tạo sự ổn định cho các đồng bào dân tộc thiểu số. Đặc biệt chú trọng công tác chăm sóc sức khỏe và giáo dục, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa. Tạo mọi điều kiện tốt nhất để tất cả người dân đều được khám chữa bệnh; hỗ trợ đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ; tiền mua bảo hiểm y tế cho hộ cận nghèo. Đến nay, tỉnh Đắk Lắk đã có 11.062 hộ gia đình được cấp 289ha đất ở và 15.474 hộ gia đình được giải quyết đất sản xuất, với diện tích trên 5.543ha. Đồng thời, tỉnh cũng đưa 65 hộ gia đình khó khăn vào làm công nhân ở các doanh nghiệp, với mức thu nhập ổn định, giao khoán gần 4.000ha rừng cho 170 hộ quản lý, bảo vệ theo Quyết định 304 của Chính phủ, hỗ trợ gần 2.000 con bò sinh sản cho các hộ dân để vươn lên trong cuộc sống, từng bước thoát nghèo. Có thể khẳng định, đối với Đắk Lắk vấn đề bảo đảm an sinh xã hội luôn là nhiệm vụ trọng tâm được cả hệ thống chính trị chung tay thực hiện hiệu quả và đồng bộ các giải pháp. Chính nhờ sự quyết tâm đó mà đầu năm 2016, tỷ lệ hộ nghèo ở Đắk Lắk giảm xuống chỉ còn hơn 7%.       

HÀ ĐẠO (ghi) 

 

Ông Nguyễn Duy Nhân, Giám đốc Sở LĐ-TB&XH Quảng Ngãi: Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm trong thi hành công vụ 

 Năm 2015, Sở LĐ- TB&XH Quảng Ngãi đã tập trung xây dựng kế hoạch, cụ thể hóa mục tiêu, chỉ tiêu và hoàn thành các chỉ tiêu đã đề ra. Bước vào năm 2016, Quảng Ngãi phấn đấu sẽ giải quyết việc làm cho 39.000 lao động, trong đó xuất khẩu lao động 1.600 người; giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn Quốc gia trên địa bàn tỉnh xuống còn 14,14%, giải quyết trên 85% đơn thư khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền.

Trong năm 2016, ngành tiếp tục xác định cải cách hành chính là nhiệm vụ trọng tâm; xây dựng kế hoạch thực hiện cụ thể trong từng thời gian, từng lĩnh vực; phân công rõ trách nhiệm của từng phòng, ban và cán bộ, công chức, viên chức; tăng cường kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện cải cách hành chính. Tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức bằng các hình thức phù hợp, có hiệu quả. Quy định rõ và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu. Tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm của hoạt động công vụ. Phát triển đồng bộ và song hành ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông với cải cách hành chính nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ, của tổ chức, cá nhân tham gia vào công tác cải cách hành chính và giám sát chất lượng thực thi công vụ của cán bộ, công chức, viên chức, từng bước cải thiện tính minh bạch trong hoạt động của cơ quan nhà nước, đẩy nhanh tiến độ, chất lượng giải quyết công việc, hướng tới nền hành chính điện tử. 

Đông Hải (thực hiện)

 

Ông  Hồ Quang Điệp, Giám Đốc Sở LĐ –TB &XH Bình Dương: Tập trung nguồn lực để đảm bảo an sinh xã hội 

Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng  kinh tế của Bình Dương luôn giữ ở mức ổn định, bên cạnh đó các chính sách an sinh xã hội (ASXH) được thực hiện khá tốt, đời sống các gia đình chính sách được quan tâm chăm lo; huy động nhiều nguồn lực tham gia công tác giảm nghèo, giải quyết việc làm, giáo dục và đào tạo, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho người dân….. 

Năm 2015, Thường trực Ban chỉ đạo Chương trình giảm nghèo tỉnh đã phối hợp với các sở, ban, ngành, đoàn thể là thành viên Ban chỉ đạo Chương trình giảm nghèo, lồng ghép các giải pháp giảm nghèo nhằm giúp hộ nghèo có điều kiện làm ăn vươn lên thoát nghèo bền vững. Cụ thể đã tập trung vào các chính sách và giải pháp như: Chính sách tín dụng cho hộ nghèo, cho vay giải quyết việc làm, cho vay về nhà ở, cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường, cho vay học sinh- sinh viên. Ngoài ra còn có các nguồn vốn khác như: Vốn tiết kiệm vì phụ nữ nghèo, vốn xây nhà vệ sinh, nguồn vốn phi Chính phủ (vốn tín dụng tiết kiệm CIDES, vốn Hoàng hậu Bỉ). Nhờ vậy, các hộ nghèo, người nghèo ngày càng có điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như thông qua các chính sách vốn vay, chương trình y tế, giáo dục, nước sinh hoạt, nhà ở… cuộc sống ngày càng được cải thiện. Từ đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, hoàn thành kế hoạch đề ra, góp phần ổn định và phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nhà. 

Trong năm, tỉnh đã  hướng dẫn Ban chỉ đạo giảm nghèo cấp huyện thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp để hộ nghèo thoát nghèo bền vững.  Đầu năm 2015, toàn tỉnh còn 3.197 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 1,12% và 4.287 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ 1,52%, tính đến cuối năm 2015, toàn tỉnh còn 1.832 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 0,64% và 4.027 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ 1,4%. Trong năm 2015 có 1.365 hộ thoát nghèo. 

Thời gian tới, tỉnh tiếp tục góp ý về tờ trình, quyết định và đề án chuyển đổi nghèo từ đơn chiều sang đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020; xây dựng phương án chuẩn nghèo giai đoạn 2016 - 2020; góp ý mô hình văn phòng giảm nghèo cấp tỉnh, trình UBND tỉnh có ý kiến với lãnh đạo Bộ LĐ - TB&XH và Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo; tổ chức hội nghị tổng kết công tác giảm nghèo giai đoạn 2014 - 2015 và triển khai kế hoạch giai đoạn 2016 - 2020. 

Ngọc Tánh (thực hiện)

 

Ông Lâm Xuân Phương, Giám đốc Sở LĐ-TB&XH Ninh Bình: Quan tâm nhiều hơn đến các đối tượng yếu thế 

 Hiện Ninh Bình còn trên 11.000 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 3,35% và hàng vạn các đối tượng yếu thế xã hội. Thực hiện Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020, ngành LĐ-TB&XH Ninh Bình đã tham mưu cho UBND tỉnh ban hành và triển khai Kế hoạch số 88/KH - UBND ngày 30/11/2015,  về việc tổng điều tra hộ nghèo, cận nghèo trên địa bàn tỉnh.

Đồng thời chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát các huyện, thành phố tập trung nguồn lực cho tổng điều tra hộ nghèo, cận nghèo, đảm bảo chính xác, đúng  tiến độ.  

Theo báo cáo sơ bộ của các huyện, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều của tỉnh là 22.812 hộ, chiếm 8,01%; tỷ lệ hộ cận nghèo là 18.331 hộ chiếm 6,44%. Công tác giảm nghèo tiếp tục được chú trọng và thực hiện có hiệu quả, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn tỉnh tiếp tục giảm bền vững. Các hoạt động chi trả, trợ giúp cho người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn trong xã hội được đẩy mạnh. Đã chi trả trợ cấp kịp thời cho 40.452 đối tượng được hưởng trợ cấp thường xuyên, đi thăm, tặng trên 60 nghìn suất quà và 400 tấn gạo cho các gia đình có hoàn cảnh khó khăn, người tàn tật, neo đơn không nơi nương tựa, người cao tuổi nhân dịp lễ, tết với tổng số tiền gần 50 tỷ đồng. Phối hợp với Sở Y tế, Bảo hiểm xã hội tỉnh cấp trên 130.000 thẻ BHYT cho người nghèo, cận nghèo, các đối tượng bảo trợ xã hội; thực hiện trợ cấp hàng tháng cho hơn 20.000 người cao tuổi. Điều chỉnh trợ cấp theo Nghị định 136 cho 6.451 đối tượng, với tổng kinh phí 12,2 tỷ đồng. 

 Những năm tới, Ninh Bình tiếp tục tập trung nguồn lực và triển khai thực hiện các chính sách giảm nghèo nhằm nâng cao đời sống cho người nghèo; lồng ghép các chương trình, dự án, nhất là đào tạo nghề, nâng cao kiến thức, trình độ tay nghề gắn với các dự án vay vốn ưu đãi cho người nghèo để tạo việc làm tại chỗ, tham gia lao động trong tỉnh, ngoài tỉnh và xuất khẩu lao động, qua đó tăng thu nhập, cải thiện và ổn định đời sống cho người nghèo.  Giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 1,5 đến 2%; thực hiện đầy đủ chế độ chính sách, cải thiện nâng mức sống cho đối tượng chính sách xã hội; 100% đối tượng đủ điều kiện được hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên tại cộng đồng.

PV.


Ông Trịnh Ngọc Dũng, Giám đốc Sở LĐ-TB&XH Thanh Hóa: Nâng cao chất lượng chăm sóc người có công Thanh Hóa là một trong những địa phương đi đầu trong việc giải quyết chính sách đối với người có công nhanh chóng, kịp thời, đảm bảo chính xác, khách quan và trung thực. Luôn thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách, chế độ ưu đãi theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng. Năm 2015, Thanh Hóa có gần 100.000 lượt người có công được thăm hỏi, tặng quà với tổng kinh phí trên 43 tỷ đồng, chi trả trợ cấp thường xuyên hàng năm cho gần 82.000 đối tượng người có công với tổng kinh phí ước trên 1.500 tỷ đồng. Trong năm 2015, đã tổ chức điều dưỡng cho hơn 31.500 người; điều dưỡng luân phiên cho gần 7.000 người có công. Tổng thu Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” ước đạt gần 18 tỷ đồng, nhằm hỗ trợ xây mới nhà; sửa chữa, nâng cấp nhà tình nghĩa; cấp sổ tiết kiệm tình nghĩa cho các gia đình người có công với cách mạng; nâng cấp các nhà bia ghi tên liệt sĩ ở xã, phường, thị trấn. Trong năm, Thanh Hóa đã tổ chức lễ phong tặng cho 21 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, truy tặng danh hiệu cho 678 Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng. Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, “Xã, phường làm tốt công tác thương binh, liệt sỹ, người có công” được phát triển sâu rộng ở tất cả các địa phương. Hoạt động thăm hỏi, tặng quà, viếng các nghĩa trang liệt sĩ.... trong dịp Tết Nguyên đán và Ngày Thương binh – Liệt sĩ (27/7) được quan tâm thực hiện chu đáo. Tích cực đấu mối với các cơ quan chức năng của Bộ để tranh thủ nguồn vốn đầu tư nâng cấp các cơ sở nuôi dưỡng, điều dưỡng nhằm đáp ứng yêu cầu điều trị, phục hồi chức năng, nâng cao sức khỏe cho người có công. Thanh Hóa phấn đấu trong những năm tới tiếp tục nâng cao chất lượng chăm sóc người có công trên địa bàn toàn tỉnh. Ðẩy mạnh việc tu bổ, đầu tư, tôn tạo các công trình tưởng niệm liệt sỹ đảm bảo ổn định, lâu dài, phát huy tính giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ.

 NGÔ HƯƠNG (ghi).


Ông Nguyễn Minh Lập, Giám đốc Sở LĐ-TB&XH Bến Tre:Đền ơn đáp nghĩa nghĩa cử cao đẹp của nhân dân xứ Dừa  

 Năm 2015, với quyết tâm và sự nỗ lực trong công tác lãnh đạo, điều hành, cùng với sự nỗ lực tích cực của cán bộ, nhân viên ngành LĐ - TB&XH Bến Tre đã hoàn thành vượt các chỉ tiêu đề ra, đảm bảo an sinh xã hội ở địa phương.Nỗi đau do chiến tranh gây ra vẫn còn đó. Chính vì vậy, mỗi hành động, nghĩa cử ân tình, mỗi lời động viên, thăm hỏi là món quà, tấm lòng của các thế hệ hôm nay dành cho những người đã hy sinh, cống hiến vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

Năm 2015, tỉnh đã tập trung giải quyết 8.321 hồ sơ ưu đãi người có công với cách mạng, trong đó: có 1.305 hồ sơ Bà mẹ Việt Nam anh hùng (BMVNAH) đã được Chủ tịch nước phong tặng, truy tặng, nâng tổng số toàn tỉnh hiện có 5.894 BMVNAH. Ngành LĐ-TB&XH đã phối hợp với Mặt trận Tổ quốc tỉnh vận động phụng dưỡng suốt đời 490 BMVNAH, còn 42 BMVNAH vừa được phong tặng đang tiếp tục vận động các tổ chức, cá nhân nhận phụng dưỡng; giải quyết 670 hồ sơ đề nghị trợ cấp 1 lần đối với người có công; 951 hồ sơ hố sơ thờ cúng liệt sĩ; 688 hồ sơ người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày; 207 người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trên 4.500 người có công. 

Công tác “Đền ơn đáp nghĩa” đối với người và gia đình có công với cách mạng được triển khai hiệu quả, đã kịp thời chi quà lễ, Tết cho trên 52.000 người có công, với tổng kinh phí trên 22 tỷ đồng; tổ chức điều dưỡng tập trung, chăm sóc sức khỏe cho 1.738 người có công và chi điều dưỡng tại gia đình cho hơn 6.800 người có công; đề nghị cấp lại 1.139 Bằng Tổ quốc ghi công cho gia đình liệt sĩ; xây dựng mới, sửa chữa 507 căn nhà tình nghĩa (thực hiện theo Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg là 279 căn, kinh phí 12,825 tỷ đồng; vận động xây dựng 273 căn, kinh phí 13,65 tỷ đồng). 

Trong thời gian tới, tỉnh khẩn trương xét duyệt, giải quyết chế độ chính sách người có công với cách mạng để đảm bảo nhanh gọn, chính xác không gây phiền hà cho người dân; đẩy mạnh phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, phong trào toàn dân chăm sóc thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng; tiếp tục thực hiện việc tôn tạo các nghĩa trang liệt sĩ, công tác mộ liệt sĩ, đài tưởng niệm Bà mẹ Việt Nam anh hùng.  

Pha Lê (thực hiện)


Ông Nguyễn Thanh Xuân, Giám đốc Sở LĐ-TB&XH Cần Thơ: Thực hiện thành công Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới 

 Thực hiện Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới, TP. Cần Thơ đã có nhiều chuyển biến tích cực từ nhận thức đến hành động, thông qua sự chỉ đạo sát sao của cấp ủy Đảng, vai trò tham mưu của cơ quan chức năng, sự vào cuộc của các cấp, các ngành, công tác lãnh đạo, điều hành thực hiện có hiệu quả của UBND từ thành phố đến cơ sở và sự khẳng định vươn lên của mỗi cá nhân.

Qua 5 năm thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 -2020, hoạt động bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ,  TP. Cần Thơ đã đạt được những thành tích đáng kể như: Tổ chức các hoạt động triển khai thực hiện Luật Bình đẳng giới, Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011- 2020 và Chương trình Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015. Đặc biệt, đã thực hiện đạt và vượt các mục tiêu, chỉ tiêu giai đoạn I (2011-2015) của Chiến lược đề ra.  

 Với mục tiêu “Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo, nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị”, TP.Cần Thơ đã đạt một số kết quả quan trọng, nhiệm kỳ 2010 - 2015 tỷ lệ nữ được bầu vào Ban chấp hành Đảng bộ thành phố đạt 14,5% (tăng 0,26%); tỷ lệ nữ tham gia đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp đều vượt chỉ tiêu kế họach đề ra. Hiện, Cần Thơ nhiều phụ nữ là lãnh đạo các cấp, là chuyên gia đầu ngành, các nhà khoa học có uy tín. Tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý xã hội, tham gia điều hành, quản lý doanh nghiệp ngày càng tăng. 

Bình đẳng giới là một quyền con người cơ bản và là một mục tiêu ưu tiên mà các quốc gia hướng đến. Trong đó, bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị được xem là một trong những nội dung quan trọng, then chốt, tạo cơ hội cho phụ nữ phát huy vai trò, vị thế của mình và thể hiện quan điểm trong quyết định các chính sách về các lĩnh vực. Bình đẳng giới cần sự thống nhất hành động để có sự bình đẳng thực sự giữa nam và nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần thực hiện công bằng xã hội và phát triển bền vững. 

Thiên Hướng

 

Bà Trần Thị Hồng Chiến, Giám đốc Sở LĐ-TB&XH  Bạc Liêu: Cung cấp nhân lực phù hợp với các giải pháp kinh tế - xã hội 

 Năm 2015, ngành LĐ-TB&XH Bạc Liêu đã giải quyết việc làm cho 22.657 lao động, đạt 125,87% kế hoạch năm. Trong đó, nổi bật là việc thu hút và giải quyết việc làm trong tỉnh có chuyển biến tích cực, tăng 35% so với năm 2014.

Điểm nổi bật của những kết quả trên chính là đã thảo luận, ký kết hợp đồng về hỗ trợ đào tạo nghề gắn với cung ứng lao động cho doanh nghiệp. Như bước đầu đã cung ứng 571lao động vào làm việc tại Công ty may mặc của Hàn Quốc. 

Năm 2016, ngành LĐ-TB&XH Bạc Liêu đặt mục tiêu đào tạo nghề cho 14.000 người, đến cuối năm 2016, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 28%; cơ bản đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động trên địa bàn tỉnh cả về số lượng, chất lượng, cung cấp nhân lực phù hợp với các giải pháp kinh tế - xã hội của tỉnh.   

Với mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo 2%/năm (theo tiêu chí mới), trong thời gian tới ngành LĐ-TB&XH sẽ triển khai nhiều kế hoạch phối hợp với các cấp các ngành. Trong đó, mục iêu tạo việc làm 18.300 người (lao động trong nước 18.000 người, xuất khẩu lao động 300 người); đến cuối năm, tỷ lệ thất nghiệp thành thị còn 2,7%. 

Hiện nay, ngoài 12 đơn vị công lập đào tạo nghề, còn có 5 cơ sở ngoài công lập tham gia gia công tác đào tạo, dạy nghề, tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh có nhiều cơ hội lựa chọn đơn vị để đăng ký học nghề, nâng cao trình độ kỹ năng nghề nghiệp. Ngành LĐ-TB&XH đang định hướng nâng cao chất lượng đào tạo của một số nghề đạt trình độ cao, đáp ứng nhu cầu của các nước phát triển trong khu vực ASEAN và trên thế giới. Từ đó hình thành đội ngũ lao động lành nghề, góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao thu nhập, giảm nghèo bền vững, đảm bảo an sinh xã hội.              

Ngọc Thiện 

Öng Khuêët Vùn Thaânh, Giaám àöëc Súã LÀ-TB&XH Haâ Nöåi: Haâ Nöåi chuã àöång àaâo taåo nguöìn nhên lûåc khi Viïåt Nam tham gia nhêåp TPP 

 

Trong 5 nùm (2011- 2015), thöng qua vöën vay tûâ Quyä Viïåc laâm quöëc gia, cöng taác giaãi quyïët viïåc laâm úã Haâ Nöåi haâng nùm àïìu àaåt 100% kïë hoaåch, riïng trong nùm 2004 àaåt 104% kïë hoaåch vúái 148.000/142.000 lao àöång àûúåc giaãi quyïët viïåc laâm. Tyã lïå thêët nghiïåp giaãm tûâ 5% nùm 2011, xuöëng dûúái 4% nùm 2015. Tuy nhiïn chêët lûúång nguöìn nhên lûåc vêîn chûa àaáp ûáng àûúåc nhu cêìu phaát triïín cuãa  nïìn kinh tïë cuãa Thuã àö, àùåc biïåt laâ nhu cêìu vïì nguöìn nhên lûåc trònh àöå cao. Söë lao àöång àûúåc giaãi quyïët viïåc laâm haâng nùm tùng song vêîn chûa àaáp ûáng àûúåc vúái nhu cêìu viïåc laâm cuãa thõ trûúâng lao àöång. Cöng taác quaãn lyá lao àöång,  nhêët laâ ngoaåi tónh vêîn laâ nhûäng vêën àïì phûác taåp.

 

Àïí thûåc hiïån hiïåu quaã hún nûäa caác muåc tiïu lao àöång, viïåc laâm vaâ thõ trûúâng lao àöång trong giai àoaån 2016-2020, Haâ Nöåi àaä àïì ra möåt söë giaãi phaáp cuå thïí. Àoá laâ tiïëp tuåc thûåc hiïån caác giaãi phaáp tuyïn truyïìn, àêíy maånh hoaåt àöång saân giao dõch viïåc laâm caã vïì söë lûúång lêîn chêët lûúång, thûåc hiïån toaân diïån nöåi dung caác Àïì aán àaä àûúåc phï duyïåt, tùng cûúâng cöng taác vay vöën Quyä quöëc gia giaãi quyïët viïåc laâm, cöng taác xuêët khêíu lao àöång…

 

Bïn caånh àoá, Haâ Nöåi cuäng chuã àöång trong cöng taác àaâo taåo nguöìn nhên lûåc àaáp ûáng nhu cêìu cuãa doanh nghiïåp, àaâo taåo nghïì gùæn vúái nhu cêìu cuãa thõ trûúâng lao àöång. Àùåc biïåt, trong thúâi gian túái khi Viïåt Nam tham gia Hiïåp àõnh Àöëi taác xuyïn Thaái Bònh Dûúng (TPP), Haâ Nöåi cam kïët seä thûåc hiïån töët, hiïåu quaã trong cöng taác àaâo taåo nghïì, giaãi quyïët viïåc laâm khi tham gia TPP. Ngoaâi ra Haâ Nöåi cuäng taåo nhiïìu cú höåi cho caác doanh nghiïåp àêíy maånh xuêët khêíu haâng hoáa, múã röång kinh doanh, taåo nhiïìu cöng ùn viïåc laâm cho ngûúâi lao àöång, trong àoá têåp trung vaâo caác ngaânh, lônh vûåc nhû: May mùåc, giêìy da, thuãy haãi saãn, lùæp raáp àiïån tûã...

           

VL (ghi)

 

Baâ Trêìn Thõ Hoaâi Thanh, Giaám àöëc Súã LÀ-TB&XH Gia Lai: Àïì ra caác giaãi phaáp cuå thïí àïí thûåc hiïån thaânh cöng caác chó tiïu nùm 2016

 

Nùm 2015, cöng taác LÀ-TB&XH úã Gia Lai àaä àaåt àûúåc nhûäng kïët quaã àaáng khñch lïå, hêìu hïët caác chó tiïu àaåt vaâ vûúåt kïë hoaåch àïì ra. Àaä giaãi quyïët viïåc laâm cho 24.670/24.500 lao àöång, àaåt 100,69% kïë hoaåch (tùng 2,5% so vúái nùm 2014). Cöng taác àaâo taåo nghïì àûúåc quan têm àöíi múái nöåi dung, phûúng thûác àaâo taåo, nêng cao chêët lûúång daåy nghïì gùæn vúái nêng cao yá thûác kyã luêåt lao àöång, taác phong cöng nghiïåp. Gùæn àaâo taåo vúái nhu cêìu sûã duång lao àöång qua àaâo taåo, giaãi quyïët viïåc laâm goáp phêìn àaáp ûáng nhu cêìu chuyïín dõch cú cêëu lao àöång.  

Giaãi quyïët viïåc laâm taåi chöî, nêng cao quyä thúâi gian sûã duång lao àöång nöng thön.

Vïì lônh vûåc ngûúâi coá cöng, nhúâ laâm töët cöng taác phöëi húåp vúái caác cêëp, caác ngaânh phaát triïín töët 5 chûúng trònh tònh nghôa; vêån àöång toaân dên tham gia chùm soác ngûúâi coá cöng nïn baão àaãm mûác söëng cuãa gia àònh ngûúâi coá cöng bùçng hoùåc cao hún mûác söëng trung bònh cuãa nhên dên núi cû truá.

 

Tyã lïå höå ngheâo cuãa tónh trong nùm àaä giaãm ài àaáng kïí - giaãm 2,29% àûa tyã lïå höå ngheâo toaân tónh cuöëi nùm xuöëng coân 11,67% (tiïu chñ cuä)

 

Nùm 2016, laâ nùm àêìu tiïn thûåc hiïån caác muåc tiïu cuãa Nghõ quyïët Àaåi höåi tónh Àaãng böå lêìn thûá XV vaâ kïë hoaåch phaát triïín kinh tïë, xaä höåi 5 nùm 2016 – 2020, Gia Lai àïì ra muåc tiïu giaãi quyïët viïåc laâm cho 24.500 ngûúâi, nêng tyã lïå lao àöång qua àaâo taåo nghïì laâ 30,2%, giaãm tyã lïå höå ngheâo àïën cuöëi nùm 2016 coân 10,25% theo tiïu chñ cuä vaâ xêy dûång 172 xaä, phûúâng, thõ trêën àaåt tiïu chuêín xaä, phûúâng phuâ húåp vúái treã em.

 

Àïí àaåt àûúåc muåc tiïu àïì ra, ngaânh LÀ-TB&XH àaä tham mûu cho Tónh uãy xêy dûång nghõ quyïët vïì cöng taác giaãm ngheâo trong àöìng baâo dên töåc thiïíu söë vúái nhûäng giaãi phaáp cuå thïí. Taåo nhiïìu viïåc laâm vaâ chuá troång nêng cao chêët lûúång viïåc laâm theo hûúáng bïìn vûäng. Tiïëp tuåc öín àõnh vaâ múã röång thõ phêìn taåi caác thõ trûúâng hiïån coá, nhêët laâ caác thõ trûúâng coá thu nhêåp cao, nêng cao chêët lûúång lao àöång ài laâm viïåc úã nûúác ngoaâi. Tùng cûúâng caác hoaåt àöång àaâo taåo nghïì vaâ tû vêën, giúái thiïåu viïåc laâm.Tiïëp tuåc àêíy maånh töí chûác caác phiïn giao dõch viïåc laâm, nhêët laâ caác phiïn giao dõch viïåc laâm lûu àöång taåi caác àõa phûúng. Cuâng vúái àoá laâ triïín khai thûåc hiïån coá hiïåu quaã caác dûå aán thuöåc chûúng trònh daåy nghïì gùæn vúái viïåc thûåc hiïån chûúng trònh xêy dûång nöng thön múái. Tuyïín sinh àaâo taåo trung cêëp nghïì, sú cêëp nghïì vaâ daåy nghïì cho lao àöång nöng thön àaåt chó tiïu kïë hoaåch giao. Triïín khai chûúng trònh àiïìu tra, raâ soaát liïåt sô, möå liïåt sô vaâ caác cöng trònh ghi cöng liïåt sô. Àêíy maånh caác phong traâo “Àïìn ún àaáp nghôa”, “Uöëng nûúác nhúá nguöìn”; “Xaä, phûúâng laâm töët cöng taác thûúng binh, liïåt sô vaâ ngûúâi coá cöng” nhùçm huy àöång moåi nguöìn lûåc trong xaä höåi, cöång àöìng cuâng Nhaâ nûúác chùm soác töët hún vïì àúâi söëng vêåt chêët, tinh thêìn cuãa ngûúâi coá cöng.

 

Vúái nhûäng giaãi phaáp cuå thïí, àûúåc sûå quan têm laänh àaåo, chó àaåo thûúâng xuyïn cuãa Tónh uãy, HÀND, UBND tónh, Böå LÀ-TB&XH; sûå phöëi húåp chùåt cheä vaâ kõp thúâi cuãa caác súã, ban, ngaânh vaâ caác àõa phûúng, chùæc chùæn nùm 2016, cöng taác LÀ - TB&XH úã Gia Lai seä àaåt vaâ vûúåt chó tiïu àïì ra.

 

THU HAÂ (ghi)

 

Öng Trêìn Trung Duäng, Giaám àöëc súã LÀ - TB&XH TP. Höì Chñ Minh: Chuá troång nêng cao chêët lûúång nguöìn lao àöång

 

 Trong 6 chûúng trònh àöåt phaá cuãa thaânh phöë, àaâo taåo nguöìn nhên lûåc chêët lûúång cao luön àûúåc xaác àõnh laâ muåc tiïu söë 1. Vò vêåy, trong thúâi gian qua Thaânh uãy, HÀND, UBND thaânh phöë àaä quan têm chó àaåo Súã LÀ-TB&XH thûåc hiïån töët cöng taác àaâo taåo nghïì trïn àõa baân. Maång lûúái cú súã daåy nghïì àûúåc phaát triïín àa daång vïì hònh thûác súã hûäu vaâ loaåi hònh àaâo taåo, söë lûúång cú súã tùng qua caác nùm. Nùm 2011, thaânh phöë coá 409 cú súã daåy nghïì, àïën 2015 tùng lïn 433  cú súã.

Töíng kinh phñ thaânh phöë àêìu tû cho cöng taác daåy nghïì giai àoaån 2011 - 2015 laâ 5.425 tyã. Trung bònh àaâo taåo cho khoaãng 300.000-400.000 hoåc viïn, söë lûúång àaâo taåo haâng nùm àïìu àaåt chó tiïu Nghõ quyïët, nêng tyã lïå lao àöång qua àaâo taåo tûâ 61% (2011) lïn 72,39% nùm 2015 (vûúåt 2,39%).

 

Trong 5 nùm, kïët quaã tuyïín sinh daåy nghïì cuãa thaânh phöë àaåt hún 1.847.000 sinh viïn, hoåc sinh; tyã lïå hoåc viïn tòm àûúåc viïåc laâm hoùåc tûå taåo viïåc laâm sau khi töët nghiïåp gêìn 80%, thöng qua àoá àaä goáp phêìn nêng cao chêët lûúång nguöìn nhên lûåc cuãa thaânh phöë qua tûâng nùm.

 

Súã àaä àïì xuêët vaâ àûúåc Böå cöng nhêån 14 trûúâng trïn àõa baân thaânh phöë coá nghïì troång àiïím giai àoaån 2011 - 2015 trong àoá coá 12 nghïì cêëp àöå quöëc tïë, 7 nghïì cêëp àöå khu vûåc ASEAN vaâ 15 nghïì cêëp àöå quöëc gia. Àïën 2015, coá 6 cú súã àaâo taåo nghïì àûúåc pheáp liïn kïët, húåp taác vúái 12 àún võ àaâo taåo úã nûúác ngoaâi nhû Myä, Anh, Haân Quöëc, Nhêåt Baãn, UÁc, Haâ Lan, ÊËn Àöå,...

 

TP. Höì Chñ Minh xaác àõnh nhiïåm vuå troång têm cuãa àaâo taåo nghïì trong nhûäng nùm túái laâ seä àêìu tû xêy dûång caác trûúâng daåy nghïì troång àiïím theo chuêín caác nûúác tiïn tiïën khu vûåc ASEAN àïí àaâo taåo caác ngaânh nghïì phuåc vuå lônh vûåc cöng nghiïåp, dõch vuå chêët lûúång cao; àêíy maånh chûúng trònh “àaâo taåo coá àõa chó”, böí sung cú chïë, chñnh saách quaãn lyá àaâo taåo nghïì. Phêën àêëu àaåt chó tiïu tyã lïå lao àöång qua àaâo taåo nghïì nghiïåp àïën nùm 2020 àaåt 85%. Thûåc hiïån tuyïín sinh àaâo taåo nghïì trònh àöå cao àùèng nghïì, trung cêëp nghïì giai àoaån 2016 – 2020 àaåt 118.000 sinh viïn, hoåc sinh.

 

Lï Hoaâng

 

Öng Nguyïîn Quang Trûúâng, Giaám àöëc Súã LÀ-TB&XH Àùæk Lùæk: Quyïët liïåt thûåc hiïån caác giaãi phaáp baão àaãm an sinh xaä höåi

 

Àùæk Lùæk laâ möåt tónh coân nhiïìu khoá khùn úã khu vûåc Têy Nguyïn, dên di cû tûå do khaá àöng. Trûúác àêy àúâi söëng cuãa baâ con gùåp muön vaân khoá khùn, tó lïå höå ngheâo coân cao. Àïí goáp phêìn giaãm ngheâo, nêng cao chêët lûúång söëng cho àöìng baâo, ngaânh LÀ-TB&XH Àùæk Lùæk àaä tham mûu cho caác cêëp chñnh quyïìn trong tónh vaâ cuâng bùæt tay quyïët liïåt thûåc hiïån caác chñnh saách vïì an sinh xaä höåi, sùæp xïëp öín àõnh cuöåc söëng ngûúâi di cû, taåo sûå öín àõnh cho caác àöìng baâo dên töåc thiïíu söë. Àùåc biïåt chuá troång cöng taác chùm soác sûác khoãe vaâ giaáo duåc, àùåc biïåt úã vuâng sêu, vuâng xa. Taåo moåi àiïìu kiïån töët nhêët àïí têët caã ngûúâi dên àïìu àûúåc khaám chûäa bïånh; höî trúå àêët úã, àêët saãn xuêët cho àöìng baâo dên töåc thiïíu söë taåi chöî; tiïìn mua baão hiïím y tïë cho höå cêån ngheâo. Àïën nay, tónh Àùæk Lùæk àaä coá 11.062 höå gia àònh àûúåc cêëp 289ha àêët úã vaâ 15.474 höå gia àònh àûúåc giaãi quyïët àêët saãn xuêët, vúái diïån tñch trïn 5.543ha. Àöìng thúâi, tónh cuäng àûa 65 höå gia àònh khoá khùn vaâo laâm cöng nhên úã caác doanh nghiïåp, vúái mûác thu nhêåp öín àõnh, giao khoaán gêìn 4.000ha rûâng cho 170 höå quaãn lyá, baão vïå theo Quyïët àõnh 304 cuãa Chñnh phuã, höî trúå gêìn 2.000 con boâ sinh saãn cho caác höå dên àïí vûún lïn trong cuöåc söëng, tûâng bûúác thoaát ngheâo. Coá thïí khùèng àõnh, àöëi vúái Àùæk Lùæk vêën àïì baão àaãm an sinh xaä höåi luön laâ nhiïåm vuå troång têm àûúåc caã hïå thöëng chñnh trõ chung tay thûåc hiïån hiïåu quaã vaâ àöìng böå caác giaãi phaáp. Chñnh nhúâ sûå quyïët têm àoá maâ àêìu nùm 2016, tyã lïå höå ngheâo úã Àùæk Lùæk giaãm xuöëng chó coân hún 7%.

 

HAÂ ÀAÅO (ghi)

 

Öng Nguyïîn Duy Nhên, Giaám àöëc Súã LÀ-TB&XH Quaãng Ngaäi: Tùng cûúâng tñnh cöng khai, minh baåch, traách nhiïåm trong thi haânh cöng vuå

 

Nùm 2015, Súã LÀ- TB&XH Quaãng Ngaäi àaä têåp trung xêy dûång kïë hoaåch, cuå thïí hoáa muåc tiïu, chó tiïu vaâ hoaân thaânh caác chó tiïu àaä àïì ra. Bûúác vaâo nùm 2016, Quaãng Ngaäi phêën àêëu seä giaãi quyïët viïåc laâm cho 39.000 lao àöång, trong àoá xuêët khêíu lao àöång 1.600 ngûúâi; giaãm tyã lïå höå ngheâo theo chuêín Quöëc gia trïn àõa baân tónh xuöëng coân 14,14%, giaãi quyïët trïn 85% àún thû khiïëu naåi, töë caáo thuöåc thêím quyïìn.

 

Trong nùm 2016, ngaânh tiïëp tuåc xaác àõnh caãi caách haânh chñnh laâ nhiïåm vuå troång têm; xêy dûång kïë hoaåch thûåc hiïån cuå thïí trong tûâng thúâi gian, tûâng lônh vûåc; phên cöng roä traách nhiïåm cuãa tûâng phoâng, ban vaâ caán böå, cöng chûác, viïn chûác; tùng cûúâng kiïím tra, àön àöëc viïåc thûåc hiïån caãi caách haânh chñnh. Tiïëp tuåc àaâo taåo, böìi dûúäng àöåi nguä caán böå, cöng chûác, viïn chûác bùçng caác hònh thûác phuâ húåp, coá hiïåu quaã. Quy àõnh roä vaâ àïì cao traách nhiïåm cuãa ngûúâi àûáng àêìu. Tùng cûúâng tñnh cöng khai, minh baåch, traách nhiïåm cuãa hoaåt àöång cöng vuå. Phaát triïín àöìng böå vaâ song haânh ûáng duång cöng nghïå thöng tin - truyïìn thöng vúái caãi caách haânh chñnh nhùçm nêng cao nhêån thûác, traách nhiïåm cuãa caán böå, cöng chûác, viïn chûác trong thûåc thi cöng vuå, cuãa töí chûác, caá nhên tham gia vaâo cöng taác caãi caách haânh chñnh vaâ giaám saát chêët lûúång thûåc thi cöng vuå cuãa caán böå, cöng chûác, viïn chûác, tûâng bûúác caãi thiïån tñnh minh baåch trong hoaåt àöång cuãa cú quan nhaâ nûúác, àêíy nhanh tiïën àöå, chêët lûúång giaãi quyïët cöng viïåc, hûúáng túái nïìn haânh chñnh àiïån tûã.

 

Àöng Haãi (thûåc hiïån)

 

Öng  Höì Quang Àiïåp, Giaám Àöëc Súã LÀ –TB &XH Bònh Dûúng: Têåp trung nguöìn lûåc àïí àaãm baão an sinh xaä höåi

 

Trong nhûäng nùm qua, töëc àöå tùng trûúãng  kinh tïë cuãa Bònh Dûúng luön giûä úã mûác öín àõnh, bïn caånh àoá caác chñnh saách an sinh xaä höåi (ASXH) àûúåc thûåc hiïån khaá töët, àúâi söëng caác gia àònh chñnh saách àûúåc quan têm chùm lo; huy àöång nhiïìu nguöìn lûåc tham gia cöng taác giaãm ngheâo, giaãi quyïët viïåc laâm, giaáo duåc vaâ àaâo taåo, baão vïå vaâ chùm soác sûác khoãe cho ngûúâi dên…..

 

Nùm 2015, Thûúâng trûåc Ban chó àaåo Chûúng trònh giaãm ngheâo tónh àaä phöëi húåp vúái caác súã, ban, ngaânh, àoaân thïí laâ thaânh viïn Ban chó àaåo Chûúng trònh giaãm ngheâo, löìng gheáp caác giaãi phaáp giaãm ngheâo nhùçm giuáp höå ngheâo coá àiïìu kiïån laâm ùn vûún lïn thoaát ngheâo bïìn vûäng. Cuå thïí àaä têåp trung vaâo caác chñnh saách vaâ giaãi phaáp nhû: Chñnh saách tñn duång cho höå ngheâo, cho vay giaãi quyïët viïåc laâm, cho vay vïì nhaâ úã, cho vay nûúác saåch vaâ vïå sinh möi trûúâng, cho vay hoåc sinh- sinh viïn. Ngoaâi ra coân coá caác nguöìn vöën khaác nhû: Vöën tiïët kiïåm vò phuå nûä ngheâo, vöën xêy nhaâ vïå sinh, nguöìn vöën phi Chñnh phuã (vöën tñn duång tiïët kiïåm CIDES, vöën Hoaâng hêåu Bó). Nhúâ vêåy, caác höå ngheâo, ngûúâi ngheâo ngaây caâng coá àiïìu kiïån tiïëp cêån caác dõch vuå xaä höåi cú baãn nhû thöng qua caác chñnh saách vöën vay, chûúng trònh y tïë, giaáo duåc, nûúác sinh hoaåt, nhaâ úã… cuöåc söëng ngaây caâng àûúåc caãi thiïån. Tûâ àoá, tyã lïå höå ngheâo giaãm nhanh, hoaân thaânh kïë hoaåch àïì ra, goáp phêìn öín àõnh vaâ phaát triïín kinh tïë xaä höåi cuãa tónh nhaâ.

 

Trong nùm, tónh àaä  hûúáng dêîn Ban chó àaåo giaãm ngheâo cêëp huyïån thûåc hiïån caác nhiïåm vuå vaâ giaãi phaáp àïí höå ngheâo thoaát ngheâo bïìn vûäng.  Àêìu nùm 2015, toaân tónh coân 3.197 höå ngheâo, chiïëm tyã lïå 1,12% vaâ 4.287 höå cêån ngheâo, chiïëm tyã lïå 1,52%, tñnh àïën cuöëi nùm 2015, toaân tónh coân 1.832 höå ngheâo, chiïëm tyã lïå 0,64% vaâ 4.027 höå cêån ngheâo, chiïëm tyã lïå 1,4%. Trong nùm 2015 coá 1.365 höå thoaát ngheâo.

 

Thúâi gian túái, tónh tiïëp tuåc goáp yá vïì túâ trònh, quyïët àõnh vaâ àïì aán chuyïín àöíi ngheâo tûâ àún chiïìu sang àa chiïìu aáp duång cho giai àoaån 2016 - 2020; xêy dûång phûúng aán chuêín ngheâo giai àoaån 2016 - 2020; goáp yá mö hònh vùn phoâng giaãm ngheâo cêëp tónh, trònh UBND tónh coá yá kiïën vúái laänh àaåo Böå LÀ - TB&XH vaâ Vùn phoâng Quöëc gia vïì giaãm ngheâo; töí chûác höåi nghõ töíng kïët cöng taác giaãm ngheâo giai àoaån 2014 - 2015 vaâ triïín khai kïë hoaåch giai àoaån 2016 - 2020.

 

 

Ngoåc Taánh

 (thûåc hiïån)

 

 

Öng Lêm Xuên Phûúng, Giaám àöëc Súã LÀ-TB&XH Ninh Bònh: Quan têm nhiïìu hún àïën caác àöëi tûúång yïëu thïë

 

Hiïån Ninh Bònh coân trïn 11.000 höå ngheâo, chiïëm tyã lïå 3,35% vaâ haâng vaån caác àöëi tûúång yïëu thïë xaä höåi. Thûåc hiïån Quyïët àõnh söë 59/2015/QÀ-TTg ngaây 19/11/2015 cuãa Thuã tûúáng Chñnh phuã vïì viïåc ban haânh chuêín ngheâo tiïëp cêån àa chiïìu aáp duång cho giai àoaån 2016 - 2020, ngaânh LÀ-TB&XH Ninh Bònh àaä tham mûu cho UBND tónh ban haânh vaâ triïín khai Kïë hoaåch söë 88/KH - UBND ngaây 30/11/2015,  vïì viïåc töíng àiïìu tra höå ngheâo, cêån ngheâo trïn àõa baân tónh.

Àöìng thúâi chó àaåo, hûúáng dêîn, giaám saát caác huyïån, thaânh phöë têåp trung nguöìn lûåc cho töíng àiïìu tra höå ngheâo, cêån ngheâo, àaãm baão chñnh xaác, àuáng  tiïën àöå.

Theo baáo caáo sú böå cuãa caác huyïån, tyã lïå höå ngheâo àa chiïìu cuãa tónh laâ 22.812 höå, chiïëm 8,01%; tyã lïå höå cêån ngheâo laâ 18.331 höå chiïëm 6,44%. Cöng taác giaãm ngheâo tiïëp tuåc àûúåc chuá troång vaâ thûåc hiïån coá hiïåu quaã, tyã lïå höå ngheâo trïn àõa baân tónh tiïëp tuåc giaãm bïìn vûäng. Caác hoaåt àöång chi traã, trúå giuáp cho ngûúâi ngheâo, ngûúâi coá hoaân caãnh khoá khùn trong xaä höåi àûúåc àêíy maånh. Àaä chi traã trúå cêëp kõp thúâi cho 40.452 àöëi tûúång àûúåc hûúãng trúå cêëp thûúâng xuyïn, ài thùm, tùång trïn 60 nghòn suêët quaâ vaâ 400 têën gaåo cho caác gia àònh coá hoaân caãnh khoá khùn, ngûúâi taân têåt, neo àún khöng núi nûúng tûåa, ngûúâi cao tuöíi nhên dõp lïî, tïët vúái töíng söë tiïìn gêìn 50 tyã àöìng. Phöëi húåp vúái Súã Y tïë, Baão hiïím xaä höåi tónh cêëp trïn 130.000 theã BHYT cho ngûúâi ngheâo, cêån ngheâo, caác àöëi tûúång baão trúå xaä höåi; thûåc hiïån trúå cêëp haâng thaáng cho hún 20.000 ngûúâi cao tuöíi. Àiïìu chónh trúå cêëp theo Nghõ àõnh 136 cho 6.451 àöëi tûúång, vúái töíng kinh phñ 12,2 tyã àöìng.

 Nhûäng nùm túái, Ninh Bònh tiïëp tuåc têåp trung nguöìn lûåc vaâ triïín khai thûåc hiïån caác chñnh saách giaãm ngheâo nhùçm nêng cao àúâi söëng cho ngûúâi ngheâo; löìng gheáp caác chûúng trònh, dûå aán, nhêët laâ àaâo taåo nghïì, nêng cao kiïën thûác, trònh àöå tay nghïì gùæn vúái caác dûå aán vay vöën ûu àaäi cho ngûúâi ngheâo àïí taåo viïåc laâm taåi chöî, tham gia lao àöång trong tónh, ngoaâi tónh vaâ xuêët khêíu lao àöång, qua àoá tùng thu nhêåp, caãi thiïån vaâ öín àõnh àúâi söëng cho ngûúâi ngheâo.  Giaãm tyã lïå höå ngheâo tûâ 1,5 àïën 2%; thûåc hiïån àêìy àuã chïë àöå chñnh saách, caãi thiïån nêng mûác söëng cho àöëi tûúång chñnh saách xaä höåi; 100% àöëi tûúång àuã àiïìu kiïån àûúåc hûúãng trúå cêëp xaä höåi thûúâng xuyïn taåi cöång àöìng.

 

 

 

Öng Trõnh Ngoåc Duäng, Giaám àöëc Súã LÀ-TB&XH Thanh Hoáa: Nêng cao chêët lûúång chùm soác ngûúâi coá cöng

 

Thanh Hoáa laâ möåt trong nhûäng àõa phûúng ài àêìu trong viïåc giaãi quyïët chñnh saách àöëi vúái ngûúâi coá cöng nhanh choáng, kõp thúâi, àaãm baão chñnh xaác, khaách quan vaâ trung thûåc. Luön thûåc hiïån àêìy àuã, kõp thúâi caác chñnh saách, chïë àöå ûu àaäi theo Phaáp lïånh Ûu àaäi ngûúâi coá cöng vúái caách maång. Nùm 2015, Thanh Hoáa coá gêìn 100.000 lûúåt ngûúâi coá cöng àûúåc thùm hoãi, tùång quaâ vúái töíng kinh phñ trïn 43 tyã àöìng, chi traã trúå cêëp thûúâng xuyïn haâng nùm cho gêìn 82.000 àöëi tûúång ngûúâi coá cöng vúái töíng kinh phñ ûúác trïn 1.500 tyã àöìng. Trong nùm 2015, àaä töí chûác àiïìu dûúäng cho hún 31.500 ngûúâi; àiïìu dûúäng luên phiïn cho gêìn 7.000 ngûúâi coá cöng. Töíng thu Quyä “Àïìn ún àaáp nghôa” ûúác àaåt gêìn 18 tyã àöìng, nhùçm höî trúå xêy múái nhaâ; sûãa chûäa, nêng cêëp nhaâ tònh nghôa; cêëp söí tiïët kiïåm tònh nghôa cho caác gia àònh ngûúâi coá cöng vúái caách maång; nêng cêëp caác nhaâ bia ghi tïn liïåt sô úã xaä, phûúâng, thõ trêën. Trong nùm, Thanh Hoáa àaä töí chûác lïî phong tùång cho 21 Baâ meå Viïåt Nam Anh huâng, truy tùång danh hiïåu cho 678 Baâ Meå Viïåt Nam Anh huâng. Phong traâo “Àïìn ún àaáp nghôa”, “Uöëng nûúác nhúá nguöìn”, “Xaä, phûúâng laâm töët cöng taác thûúng binh, liïåt syä, ngûúâi coá cöng” àûúåc phaát triïín sêu röång úã têët caã caác àõa phûúng. Hoaåt àöång thùm hoãi, tùång quaâ, viïëng caác nghôa trang liïåt sô.... trong dõp Tïët Nguyïn àaán vaâ Ngaây Thûúng binh – Liïåt sô (27/7) àûúåc quan têm thûåc hiïån chu àaáo. Tñch cûåc àêëu möëi vúái caác cú quan chûác nùng cuãa Böå àïí tranh thuã nguöìn vöën àêìu tû nêng cêëp caác cú súã nuöi dûúäng, àiïìu dûúäng nhùçm àaáp ûáng yïu cêìu àiïìu trõ, phuåc höìi chûác nùng, nêng cao sûác khoãe cho ngûúâi coá cöng. Thanh Hoáa phêën àêëu trong nhûäng nùm túái tiïëp tuåc nêng cao chêët lûúång chùm soác ngûúâi coá cöng trïn àõa baân toaân tónh. Ðêíy maånh viïåc tu böí, àêìu tû, tön taåo caác cöng trònh tûúãng niïåm liïåt syä àaãm baão öín àõnh, lêu daâi, phaát huy tñnh giaáo duåc truyïìn thöëng caách maång cho thïë hïå treã.

 

Öng Nguyïîn Minh Lêåp, Giaám àöëc Súã LÀ-TB&XH Bïën Tre:

Àïìn ún àaáp nghôa nghôa cûã cao àeåp cuãa nhên dên

xûá Dûâa

 

 

Nùm 2015, vúái quyïët têm vaâ sûå nöî lûåc trong cöng taác laänh àaåo, àiïìu haânh, cuâng vúái sûå nöî lûåc tñch cûåc cuãa caán böå, nhên viïn ngaânh LÀ - TB&XH Bïën Tre àaä hoaân thaânh vûúåt caác chó tiïu àïì ra, àaãm baão an sinh xaä höåi úã àõa phûúng.

Nöîi àau do chiïën tranh gêy ra vêîn coân àoá. Chñnh vò vêåy, möîi haânh àöång, nghôa cûã ên tònh, möîi lúâi àöång viïn, thùm hoãi laâ moán quaâ, têëm loâng cuãa caác thïë hïå höm nay daânh cho nhûäng ngûúâi àaä hy sinh, cöëng hiïën vò àöåc lêåp, tûå do cuãa Töí quöëc.

 

Nùm 2015, tónh àaä têåp trung giaãi quyïët 8.321 höì sú ûu àaäi ngûúâi coá cöng vúái caách maång, trong àoá: coá 1.305 höì sú Baâ meå Viïåt Nam anh huâng (BMVNAH) àaä àûúåc Chuã tõch nûúác phong tùång, truy tùång, nêng töíng söë toaân tónh hiïån coá 5.894 BMVNAH. Ngaânh LÀ-TB&XH àaä phöëi húåp vúái Mùåt trêån Töí quöëc tónh vêån àöång phuång dûúäng suöët àúâi 490 BMVNAH, coân 42 BMVNAH vûâa àûúåc phong tùång àang tiïëp tuåc vêån àöång caác töí chûác, caá nhên nhêån phuång dûúäng; giaãi quyïët 670 höì sú àïì nghõ trúå cêëp 1 lêìn àöëi vúái ngûúâi coá cöng; 951 höì sú höë sú thúâ cuáng liïåt sô; 688 höì sú ngûúâi hoaåt àöång caách maång, hoaåt àöång khaáng chiïën bõ àõch bùæt tuâ, àaây; 207 ngûúâi hoaåt àöång khaáng chiïën bõ nhiïîm chêët àöåc hoáa hoåc; cêëp theã baão hiïím y tïë cho trïn 4.500 ngûúâi coá cöng.

 

Cöng taác “Àïìn ún àaáp nghôa” àöëi vúái ngûúâi vaâ gia àònh coá cöng vúái caách maång àûúåc triïín khai hiïåu quaã, àaä kõp thúâi chi quaâ lïî, Tïët cho trïn 52.000 ngûúâi coá cöng, vúái töíng kinh phñ trïn 22 tyã àöìng; töí chûác àiïìu dûúäng têåp trung, chùm soác sûác khoãe cho 1.738 ngûúâi coá cöng vaâ chi àiïìu dûúäng taåi gia àònh cho hún 6.800 ngûúâi coá cöng; àïì nghõ cêëp laåi 1.139 Bùçng Töí quöëc ghi cöng cho gia àònh liïåt sô; xêy dûång múái, sûãa chûäa 507 cùn nhaâ tònh nghôa (thûåc hiïån theo Quyïët àõnh söë 22/2013/QÀ-TTg laâ 279 cùn, kinh phñ 12,825 tyã àöìng; vêån àöång xêy dûång 273 cùn, kinh phñ 13,65 tyã àöìng).

 

Trong thúâi gian túái, tónh khêín trûúng xeát duyïåt, giaãi quyïët chïë àöå chñnh saách ngûúâi coá cöng vúái caách maång àïí àaãm baão nhanh goån, chñnh xaác khöng gêy phiïìn haâ cho ngûúâi dên; àêíy maånh phong traâo “Àïìn ún àaáp nghôa”, phong traâo toaân dên chùm soác thûúng binh, liïåt sô vaâ ngûúâi coá cöng vúái caách maång; tiïëp tuåc thûåc hiïån viïåc tön taåo caác nghôa trang liïåt sô, cöng taác möå liïåt sô, àaâi tûúãng niïåm Baâ meå Viïåt Nam anh huâng.

 

Pha Lï (thûåc hiïån)

 

Öng Nguyïîn Thanh Xuên, Giaám àöëc Súã LÀ-TB&XH Cêìn Thú: Thûåc hiïån thaânh cöng Chiïën lûúåc quöëc gia vïì bònh àùèng giúái

 

Thûåc hiïån Chiïën lûúåc Quöëc gia vïì bònh àùèng giúái, TP. Cêìn Thú àaä coá nhiïìu chuyïín biïën tñch cûåc tûâ nhêån thûác àïën haânh àöång, thöng qua sûå chó àaåo saát sao cuãa cêëp uãy Àaãng, vai troâ tham mûu cuãa cú quan chûác nùng, sûå vaâo cuöåc cuãa caác cêëp, caác ngaânh, cöng taác laänh àaåo, àiïìu haânh thûåc hiïån coá hiïåu quaã cuãa UBND tûâ thaânh phöë àïën cú súã vaâ sûå khùèng àõnh vûún lïn cuãa möîi caá nhên.

 

Qua 5 nùm thûåc hiïån Chiïën lûúåc quöëc gia vïì bònh àùèng giúái giai àoaån 2011 -2020, hoaåt àöång bònh àùèng giúái vaâ vò sûå tiïën böå cuãa phuå nûä,  TP. Cêìn Thú àaä àaåt àûúåc nhûäng thaânh tñch àaáng kïí nhû: Töí chûác caác hoaåt àöång triïín khai thûåc hiïån Luêåt Bònh àùèng giúái, Chiïën lûúåc quöëc gia vïì bònh àùèng giúái giai àoaån 2011- 2020 vaâ Chûúng trònh Quöëc gia vïì bònh àùèng giúái giai àoaån 2011-2015. Àùåc biïåt, àaä thûåc hiïån àaåt vaâ vûúåt caác muåc tiïu, chó tiïu giai àoaån I (2011-2015) cuãa Chiïën lûúåc àïì ra.

 

 Vúái muåc tiïu “Tùng cûúâng sûå tham gia cuãa phuå nûä vaâo caác võ trñ quaãn lyá, laänh àaåo, nhùçm tûâng bûúác giaãm dêìn khoaãng caách giúái trong lônh vûåc chñnh trõ”, TP.Cêìn Thú àaä àaåt möåt söë kïët quaã quan troång, nhiïåm kyâ 2010 - 2015 tyã lïå nûä àûúåc bêìu vaâo Ban chêëp haânh Àaãng böå thaânh phöë àaåt 14,5% (tùng 0,26%); tyã lïå nûä tham gia àaåi biïíu Quöëc höåi vaâ HÀND caác cêëp àïìu vûúåt chó tiïu kïë hoåach àïì ra. Hiïån, Cêìn Thú nhiïìu phuå nûä laâ laänh àaåo caác cêëp, laâ chuyïn gia àêìu ngaânh, caác nhaâ khoa hoåc coá uy tñn. Tyã lïå phuå nûä tham gia laänh àaåo, quaãn lyá xaä höåi, tham gia àiïìu haânh, quaãn lyá doanh nghiïåp ngaây caâng tùng.

 

Bònh àùèng giúái laâ möåt quyïìn con ngûúâi cú baãn vaâ laâ möåt muåc tiïu ûu tiïn maâ caác quöëc gia hûúáng àïën. Trong àoá, bònh àùèng giúái trong lônh vûåc chñnh trõ àûúåc xem laâ möåt trong nhûäng nöåi dung quan troång, then chöët, taåo cú höåi cho phuå nûä phaát huy vai troâ, võ thïë cuãa mònh vaâ thïí hiïån quan àiïím trong quyïët àõnh caác chñnh saách vïì caác lônh vûåc. Bònh àùèng giúái cêìn sûå thöëng nhêët haânh àöång àïí coá sûå bònh àùèng thûåc sûå giûäa nam vaâ nûä trong moåi lônh vûåc cuãa àúâi söëng xaä höåi, goáp phêìn thûåc hiïån cöng bùçng xaä höåi vaâ phaát triïín bïìn vûäng.

 

Thiïn Hûúáng

 

Baâ Trêìn Thõ Höìng Chiïën, Giaám àöëc Súã LÀ-TB&XH  Baåc Liïu: Cung cêëp nhên lûåc phuâ húåp vúái caác giaãi phaáp kinh tïë - xaä höåi

 

Nùm 2015, ngaânh LÀ-TB&XH Baåc Liïu àaä giaãi quyïët viïåc laâm cho 22.657 lao àöång, àaåt 125,87% kïë hoaåch nùm. Trong àoá, nöíi bêåt laâ viïåc thu huát vaâ giaãi quyïët viïåc laâm trong tónh coá chuyïín biïën tñch cûåc, tùng 35% so vúái nùm 2014.

 

Àiïím nöíi bêåt cuãa nhûäng kïët quaã trïn chñnh laâ àaä thaão luêån, kyá kïët húåp àöìng vïì höî trúå àaâo taåo nghïì gùæn vúái cung ûáng lao àöång cho doanh nghiïåp. Nhû bûúác àêìu àaä cung ûáng 571lao àöång vaâo laâm viïåc taåi Cöng ty may mùåc cuãa Haân Quöëc.

 

Nùm 2016, ngaânh LÀ-TB&XH Baåc Liïu àùåt muåc tiïu àaâo taåo nghïì cho 14.000 ngûúâi, àïën cuöëi nùm 2016, tyã lïå lao àöång qua àaâo taåo nghïì àaåt 28%; cú baãn àaáp ûáng àûúåc nhu cêìu cuãa thõ trûúâng lao àöång trïn àõa baân tónh caã vïì söë lûúång, chêët lûúång, cung cêëp nhên lûåc phuâ húåp vúái caác giaãi phaáp kinh tïë - xaä höåi cuãa tónh. 

 

Vúái muåc tiïu giaãm tyã lïå höå ngheâo 2%/nùm (theo tiïu chñ múái), trong thúâi gian túái ngaânh LÀ-TB&XH seä triïín khai nhiïìu kïë hoaåch phöëi húåp vúái caác cêëp caác ngaânh. Trong àoá, muåc iïu taåo viïåc laâm 18.300 ngûúâi (lao àöång trong nûúác 18.000 ngûúâi, xuêët khêíu lao àöång 300 ngûúâi); àïën cuöëi nùm, tyã lïå thêët nghiïåp thaânh thõ coân 2,7%.

 

Hiïån nay, ngoaâi 12 àún võ cöng lêåp àaâo taåo nghïì, coân coá 5 cú súã ngoaâi cöng lêåp tham gia gia cöng taác àaâo taåo, daåy nghïì, taåo àiïìu kiïån thuêån lúåi cho hoåc sinh coá nhiïìu cú höåi lûåa choån àún võ àïí àùng kyá hoåc nghïì, nêng cao trònh àöå kyä nùng nghïì nghiïåp. Ngaânh LÀ-TB&XH àang àõnh hûúáng nêng cao chêët lûúång àaâo taåo cuãa möåt söë nghïì àaåt trònh àöå cao, àaáp ûáng nhu cêìu cuãa caác nûúác phaát triïín trong khu vûåc ASEAN vaâ trïn thïë giúái. Tûâ àoá hònh thaânh àöåi nguä lao àöång laânh nghïì, goáp phêìn thûåc hiïån chuyïín dõch cú cêëu lao àöång, nêng cao thu nhêåp, giaãm ngheâo bïìn vûäng, àaãm baão an sinh xaä höåi.          

 

Ngoåc Thiïån

Lao động và Xã hội

CÙNG CHUYÊN MỤC
Xem theo ngày
Tin nên đọc
Báo dân sinh
Báo dân sinh
Báo dân sinh