Đột quỵ không phải là căn bệnh “trời kêu ai nấy dạ” mà có thể phòng tránh được
- Y học 360
- 20:18 - 17/07/2023
Mới đây, Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM (BV ĐHYD TPHCM) tiếp nhận điều trị trường hợp người bệnh T.D.A (69 tuổi, ngụ tại TPHCM). Ông A. nhập viện trong tình trạng liệt hoàn toàn nửa người. Tại khoa Cấp cứu, các bác sĩ nhận định ban đầu đây là một trường hợp đột quỵ tắc nghẽn mạch máu não nên chỉ định dùng thuốc tiêu sợi huyết cho người bệnh. Sau khi dùng thuốc, sức cơ tay, chân của ông A. đã hồi phục được một phần.
Tiếp đó, người bệnh được tiến hành thủ thuật can thiệp lấy huyết khối cơ học tái thông mạch máu não. Sau can thiệp, sức cơ của ông A. đã có dấu hiệu hồi phục rõ rệt. Sau đó, người bệnh được theo dõi và chăm sóc tiếp tại Đơn vị Đột quỵ.
Hiểu về đột quỵ - Căn bệnh của thời đại
TS BS. Nguyễn Bá Thắng - Trưởng Trung tâm khoa học Thần kinh, Trưởng khoa Thần kinh, Trưởng Đơn vị Đột quỵ BV ĐHYD TPHCM cho biết đột quỵ là tình trạng não bộ bị tổn thương nghiêm trọng do quá trình cấp máu não bị gián đoạn hoặc suy giảm đáng kể. Khi ấy não bộ rơi vào tình trạng thiếu oxy và không đủ dinh dưỡng để nuôi các tế bào. Trong vòng vài phút nếu không được cung cấp đủ máu, các tế bào não sẽ chết dần.
Mỗi phần não chúng ta đều đảm nhận một chức năng nhất định như chức năng vận động, cảm giác, thị giác, thính giác... Khi xảy ra đột quỵ, phần não bị hư hại không thể đảm nhận chức năng ban đầu, do đó dẫn đến xuất hiện các triệu chứng: yếu liệt nửa người, tê và mất cảm giác, mất thị lực một bên hoặc mù hoàn toàn, mất ngôn ngữ, hôn mê,...
Đột quỵ được đánh giá là “căn bệnh tử thần thời đại 4.0” vì có thể xuất hiện ở bất kỳ ai, ở bất kỳ độ tuổi nào. Tuy nhiên ở một số nhóm đối tượng với nguy cơ tiềm ẩn khả năng bị đột quỵ cao hơn người bình thường. Hiện nay có 2 nhóm yếu tố nguy cơ chính gây đột quỵ gồm: nhóm yếu tố có thể thay đổi được (hút thuốc lá, nghiện rượu, béo phì, rung nhĩ,...) và nhóm yếu tố không thể thay đổi được (tuổi tác, giới tính, gen di truyền). Trong đó, rung nhĩ là yếu tố nguy cơ quan trọng có thể làm tăng khả năng đột quỵ lên gấp 5 lần.
Trong bệnh lý rung nhĩ, buồng tâm nhĩ không tống máu hiệu quả tạo nguy cơ hình thành cục máu đông. Các cục máu đông khi xuống tâm thất, một khi bơm vào hệ tuần hoàn sẽ có cơ hội di chuyển trong lòng mạch não và gây tắc mạch gây đột quỵ thiếu máu não.
Để phát hiện một người rơi vào tình trạng đột quỵ, chúng ta có thể nhận biết và xử trí qua câu “Méo cười, ngọng nói, xuội tay – Mau gọi cấp cứu, đi ngay, đừng chờ” hoặc các dấu hiệu được viết tắt trong từ FAST: F (Face): Người bệnh có thể liệt mặt, méo miệng, nhân trung lệch đi, biểu hiện rõ khi cười, nhe răng. A (Arm): Yếu liệt tay chân. Kiểm tra bằng cách yêu cầu người bệnh đưa hai tay lên duy trì tư thế duỗi thẳng hai tay ra phía trước để phát hiện sự bất đối xứng khi so sánh hai bên. S (Speech): Ngôn ngữ bất thường, nói khó, nói đớ hoặc câm lặng. T (Time): Khi xuất hiện bất kỳ triệu chứng trên một cách đột ngột, hãy nhanh chóng gọi cấp cứu, đưa người bệnh đến bệnh viện có điều trị đột quỵ gần nhất.
Biện pháp sơ cứu có thể thực hiện trong khi chờ xe cứu thương bao gồm: đặt người bệnh nằm tư thế an toàn, có thề nằm nghiêng để tránh hít sặc thức ăn hoặc nước bọt do giảm khả năng nuốt, chuẩn bị đầy đủ thông tin hồ sơ bệnh lý và thời điểm dùng thuốc sau cùng của người bệnh, không cho người bệnh ăn hoặc uống bất cứ thứ gì qua đường miệng để tránh hít sặc. Cần ghi nhớ chính xác thời điểm khởi phát triệu chứng để thông báo cho nhân viên y tế nhằm tranh thủ tối đa cửa sổ vàng điều trị tái thông đột quỵ.
Những điều cần lưu ý để tránh “án tử” đột quỵ
Với sự phát triển của y học hiện đại, đột quỵ không còn là căn bệnh “trời kêu ai nấy dạ” như trước đây. Để phòng tránh đột quỵ, chúng ta có thể bắt đầu từ việc chặn đứng các yếu tố nguy cơ gây bệnh thông qua các chương trình tầm soát đột quỵ. Các chương trình tầm soát thông thường có thể giúp phát hiện các bệnh lý như: tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu, rung nhĩ hoặc các bệnh lý tim mạch khác… vốn là các yếu tố nguy cơ của đột quỵ có thể thay đổi được. Việc phát hiện sớm cùng kế hoạch kiểm soát chặt chẽ các yếu tố nguy cơ mạch máu, đồng thời kết hợp thay đổi các thói quen và lối sống như: bỏ thuốc lá, hạn chế uống rượu bia, kiểm soát cân nặng, tăng cường vận động… sẽ giúp ngăn ngừa hiệu quả bệnh lý mạch máu não.
BS CKII. Phạm Thị Ngọc Quyên - Khoa Thần kinh BV ĐHYD TPHCM lưu ý: “Riêng với nhóm người bệnh rung nhĩ, người bệnh cần tuân thủ điều trị theo chỉ định của bác sĩ để kiểm soát tốt tình trạng bệnh. Bên cạnh đó, cần quản lý tốt các yếu tố nguy cơ đi kèm như đường huyết, mỡ máu, hội chứng ngưng thở khi ngủ, đồng thời duy trì cân nặng cân đối để giảm thiểu nguy cơ đột quỵ xuất hiện”.
Ngoài ra, với những người bệnh đã bị đột quỵ và được cấp cứu thành công, không nên chủ quan rằng đã điều trị dứt điểm mà cần phải lưu ý đến khả năng tái phát đột quỵ trong những năm tháng tiếp theo. Lúc này, phòng ngừa tái phát đột quỵ trở thành mục tiêu hàng đầu cần được quan tâm. Bởi những cơn đột quỵ xuất hiện sau này thường để lại hậu quả nặng nề hơn so với lần xuất hiện đầu tiên.
Để phòng ngừa tái phát đột quỵ, người bệnh cần ghi nhớ: tăng cường vận động, giảm cân chống béo phì, không ăn nhiều mỡ béo, chất ngọt, đường, bột, muối mặn, ăn nhiều rau củ, trái cây, điều trị bệnh tăng huyết áp, đái tháo thường, bệnh tim, chữa tăng cholesterol máu, bỏ thuốc lá, ngưng rượu bia,... Ngoài những yếu tố này, các bác sĩ sẽ lưu ý thêm từ kết quả tầm soát đột quỵ để kiểm soát 3 nhóm nguyên nhân lớn gây đột quỵ cho người bệnh gồm: xơ vữa động mạch, rung nhĩ, bệnh lý mạch máu nhỏ.
Bên cạnh đó, với thời tiết đã vào hè như hiện nay, chúng ta cần giữ cho cơ thể tránh rơi vào tình trạng thay đổi nhiệt độ đột ngột, đồng thời uống đủ nước mỗi ngày để phòng tránh việc mất nước vốn có thể là một nguy cơ gây đột quỵ thông qua cơ chế giảm lưu lượng đặc biệt ở người cao tuổi hoặc có sẵn bệnh lý nền hệ thống.