“Con tàu” Việt Nam vững vàng tiến về phía trước
- Tây Y
- 12:47 - 02/09/2020
1. Ngày 2/9/1945, trên lễ đài lớn tại Quảng trường Ba Đình lịch sử ở Thủ đô Hà Nội, trước cuộc mít tinh của đông đảo nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam), mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, người dân Việt Nam trở thành công dân một nước dân chủ, tự do, độc lập, làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, làm chủ vận mệnh của mình.
Chặng đường 75 năm qua, nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo luôn kiên định con đường phát triển đã lựa chọn và bảo vệ vững chắc mục tiêu tự do và độc lập của mình, đưa Việt Nam từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến, đói nghèo trở thành quốc gia đang phát triển với vị thế quốc tế ngày càng cao, một hình mẫu đất nước không ngừng đổi mới, sáng tạo, trách nhiệm được thế giới ca ngợi, tin tưởng, ủng hộ. Thành công trong cuộc chiến chống đại dịch Covid-19 trong những tháng đầu năm 2020 đã tiếp tục minh chứng, khẳng định điều này.
Ngay từ khi ra đời, Nhà nước ta đã phải đương đầu với nhiều thử thách, khó khăn. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân non trẻ đã lãnh đạo, đoàn kết đông đảo tầng lớp nhân dân kiên quyết chiến đấu bảo vệ và giữ vững nền độc lập tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân.
Tiếp nối thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là những thành công của cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp với một Điện Biên Phủ năm 1954 lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu; là một cuộc trường chinh 20 năm đánh bại nhiều chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ với đại thắng Mùa Xuân thống nhất Tổ quốc năm 1975; là việc tiến hành chiến đấu giành thắng lợi trong 2 cuộc chiến tranh biên giới giữ vững chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, đồng thời làm tròn nghĩa vụ quốc tế giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng và tiến hành công cuộc hồi sinh đất nước; đặc biệt là những kết quả to lớn toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của công cuộc đổi mới đất nước trong 35 năm qua...
Những thành công to lớn có ý nghĩa lịch sử nói trên cho thấy, ở đâu, lúc nào Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam cũng nhận được sự ủng hộ, tin tưởng và kỳ vọng của nhân dân và chính Nhà nước đó đã luôn kiên định, bản lĩnh, trách nhiệm, đổi mới, sáng tạo, tất cả vì độc lập, tự do, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, vì dân chủ, bình đẳng, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.
2. 35 năm đổi mới (1986 - 2020) là một giai đoạn lịch sử quan trọng có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp phát triển của cách mạng Việt Nam, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta; là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để mọi mặt của đất nước trên tất cả các lĩnh vực; là sự nghiệp cách mạng vinh quang của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong 35 năm đổi mới, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta tiếp tục đoàn kết, đồng lòng, sáng tạo đưa đất nước không ngừng phát triển đi lên. Giờ đây một bản lĩnh trí tuệ Việt Nam đang tiếp tục tỏa sáng trong tiến trình thực hiện khát vọng xây dựng một quốc gia thịnh vượng, hùng cường.
Tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện bắt đầu bằng "đổi mới tư duy", tức là đổi mới về phương pháp tiếp cận trong nhận thức lý luận: Nhìn thẳng vào sự thật; tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan; dựa vào dân, coi trọng sáng kiến của nhân dân; coi trọng tổng kết thực tiễn; phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trên cơ sở kiên định con đường độc lập dân tộc và CNXH… Chính dựa trên đổi mới tư duy đó, Đảng, Nhà nước ta đã từng bước xác định được về cơ bản mô hình và cách thức xây dựng CNXH phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.
Cũng chính từ đổi mới tư duy đó, Việt Nam đã chuyển đổi mạnh mẽ từ mô hình nhà nước tập quyền XHCN sang mô hình Nhà nước pháp quyền XHCN, đó là một hình thức Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; do nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thành công tiếp nối thành công. Đó là đưa Việt Nam từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu từng bước trở thành quốc gia có cơ sở vật chất, kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nổi bật rõ nét là tốc độ tăng trưởng kinh tế không ngừng nâng cao.
Giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990) với mức tăng trưởng GDP đạt bình quân 4,4 %/năm, đến giai đoạn 1991 - 1995, với mức tăng trưởng GDP rất ấn tượng đạt bình quân 8,2%/năm (tăng gần gấp đôi so với giai đoạn trước đó). Giai đoạn 1996 - 2000, mặc dù bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực (1997 - 1999), GDP của Việt Nam vẫn có mức tăng trưởng bình quân 7,6%/năm.
Giai đoạn 2001 - 2010 (2008 xuất hiện khủng hoảng kinh tế toàn cầu), tuy nhiên tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn đạt 6,83%/năm. Với thành công đó, sau 10 năm đổi mới (1996), đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; sau 25 năm đổi mới (2010), đất nước đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình. Giai đoạn 2011 - 2015, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu và nợ công trong nước, tốc độ tăng trưởng GDP chậm lại, nhưng vẫn đạt 5,9%/năm. Sau năm 2016, kinh tế Việt Nam lại có những dấu hiệu tăng trưởng mạnh mẽ, trong 2 năm 2018, 2019 đều có tốc độ tăng trưởng đạt hơn 7 %/năm.
Bên cạnh đó quy mô nền kinh tế tăng nhanh (thu nhập bình quân trên đầu người theo cách tính mới đến năm 2019 đạt khoảng gần 3.000 USD/năm). Lực lượng sản xuất có nhiều tiến bộ cả về số lượng và chất lượng. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát khá tốt. Môi trường đầu tư liên tục được cải thiện, nhờ đó thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư cho phát triển. Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng hiện đại, giảm khu vực nông nghiệp, tăng khu vực dịch vụ và công nghiệp.
Kim ngạch xuất khẩu thường xuyên tăng với tốc độ hai con số và xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng sản phẩm công nghiệp, giảm dần sản phẩm nguyên liệu thô. Năm 2019 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt khoảng 517 tỷ USD. Đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước.
Ngoài ra, những dấu ấn về tư tưởng, đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN được thể chế hóa thành pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế vận hành hiệu quả bằng việc chứng kiến vai trò tích cực của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế quốc dân theo hướng tự do kinh doanh và cạnh tranh theo quy định của pháp luật. Kinh tế nhà nước dần phát huy tốt hơn vai trò chủ đạo. Nhiều hình thức hợp tác kiểu mới của kinh tế tập thể được hình thành ngày càng phù hợp với cơ chế thị trường.
Kinh tế tư nhân tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng, ngày càng khẳng định là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển, góp phần to lớn vào thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xuất khẩu, giải quyết việc làm; hình thành ngày càng đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, vận hành cơ bản thông suốt, gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế.
3. Bên cạnh đó việc tăng trưởng kinh tế cơ bản đã gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Chính sách giải quyết việc làm từ chỗ nhà nước bao cấp đã chuyển sang cơ chế có sự tham gia mạnh mẽ của các thành phần kinh tế và người lao động. Tư duy từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu nghèo chuyển sang khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi liền với xóa đói giảm nghèo.
Các chính sách xã hội vì hạnh phúc con người luôn được quan tâm và ngày càng đi vào thực chất khẳng định tính ưu việt, bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa và cũng là khắc phục mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, hệ thống cơ sở y tế được hình thành rộng khắp trong cả nước. Hệ thống dịch vụ y tế ngày càng được nâng cao chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân.
Đó là tầm nhìn sâu sắc, toàn diện hơn về phát triển văn hóa, xã hội và xây dựng con người Việt Nam. Văn hóa được nhận thức là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người, thể hiện trình độ phát triển chung của đất nước; văn hóa là nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của sự phát triển; văn hóa không chỉ là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội mà là sự phát triển bền vững của quốc gia. Phát triển văn hóa chính là phát triển con người. Con người chính là trung tâm của chiến lược phát triển, là chủ thể của phát triển, là mục tiêu quyết định của phát triển và là động lực quan trọng nhất của phát triển.
Thực tế cho thấy sự nghiệp phát triển văn hóa và xây dựng con người đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Văn hóa phát triển đa dạng, phong phú, xuất hiện nhiều loại hình, thể loại, các hoạt động văn hóa mới có khả năng chiếm lĩnh các mặt khác nhau của đời sống xã hội. Chính sự phát triển của văn hóa đã góp phần quan trọng tạo không khí dân chủ, cởi mở hơn, dân trí được nâng cao, tính năng động sáng tạo, tự chủ và tích cực của con người được phát huy, hình thành các nhân tố mới, giá trị mới của con người Việt Nam.
Đó là những thành công trong chiến lược quốc phòng, an ninh bảo vệ vững chắc chủ quyền, lãnh thổ quốc gia và đảm bảo trật tự an ninh xã hội trên mọi vùng, miền địa phương của cả nước. Trong điều kiện mới và bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã có nhiều đổi mới, sáng tạo trong cách tiếp cận về tính chất, đặc điểm của hai nhiệm vụ xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh quốc gia.
Đặc biệt quan điểm về đối tác, đối tượng là một nhận thức mới được xem xét một cách biện chứng phù hợp với tình hình và những mối quan hệ chính trị, lợi ích phức tạp của thế giới hiện nay. Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội được xác định là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.
Một thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân và tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh luôn được chú trọng xây dựng và củng cố. Đánh giá về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh 35 năm đổi mới nổi lên một số thành tự như: (i).
Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước; (ii).
Nền quốc phòng toàn dân ngày càng vững mạnh toàn diện, có bước phát triển mới cả về bề rộng và chiều sâu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; (iii).
Chất lượng tổng hợp, sức mạnh, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân không ngừng được nâng cao, xứng đáng là lực lượng nòng cốt cho toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; (iv).
Hợp tác quốc tế và đối ngoại về quốc phòng, an ninh không ngừng được đẩy mạnh, có bước phát triển đột phá cả về nhận thức và hành động, góp phần nâng cao vị thế đất nước và xây dựng lòng tin chiến lược giữa Việt Nam với các quốc gia, thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác trong khu vực và trên thế giới; (v). Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất, tập trung của Nhà nước và sự tham gia của toàn dân đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
Đó là những thành công với những kết quả to lớn của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ: Phá thế bao vây, cấm vận từ bên ngoài, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; thúc đẩy các mối quan hệ song phương, đa phương ngày càng đi vào chiều sâu, ổn định và phát triển; mở ra một không gian sâu rộng thuận lợi cho kinh tế Việt Nam hội nhập, phát triển (riêng năm 2019, nguồn vốn FDI đầu tư vào Việt Nam đạt khoảng 30 tỷ USD, có khoảng 18 triệu lượt khách quốc tế đến Việt Nam); tạo điều kiện để Việt Nam học hỏi, tiếp thu nhanh nhất những tiến bộ, văn minh của thế giới về khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý, tinh hoa văn hóa của các nước.
Việc hợp tác với nhiều đối tác hàng đầu thế giới về khoa học công nghệ đã góp phần giúp Việt Nam có những bước tiến mạnh mẽ trong nỗ lực tận dụng cơ hội từ cuộc cách mạng công nghệ 4.0; quảng bá hình ảnh tiềm năng lợi thế so sánh của Việt Nam ra bên ngoài; nhận được nhiều sự quan tâm ủng hộ, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế; quan hệ của Việt Nam với các nước lớn không ngừng được tăng cường, mang lại cho đất nước cả nguồn lực để phát triển cũng như vị thế ngày càng vững chắc; mạng lưới đối tác chiến lược, đối tác toàn diện được đẩy mạnh (hiện nay Việt Nam có 30 đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, trong đó có 16 đối tác chiến lược); nâng tầm vị thế của Việt Nam từ chỗ "tham gia tích cực" vươn lên "chủ động đóng góp xây dựng định hình luật chơi chung" với vai trò "thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế".
Không phải đơn giản mà Hoa Kỳ và Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên đồng thuận lựa chọn Hà Nội - Thành phố vì hòa bình làm địa điểm gặp gỡ thượng đỉnh (đầu năm 2019). Cũng không phải ngẫu nhiên khi 192/193 quốc gia thành viên của Liên hợp quốc đã bỏ phiếu bầu Việt Nam là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021...
4. Kỷ niệm 75 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân càng nhận thức sâu sắc về tầm vóc, ý nghĩa lịch sử trọng đại của các sự kiện này, thì càng tự hào về những thành tựu to lớn của đất nước đã đạt được, tự hào về một dân tộc Việt Nam anh hùng.
Có thể nói, tất cả những kết quả trên đều ghi đậm dấu ấn của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo với sự kiên định, nhất quán con đường phát triển độc lập dân tộc và CNXH. Vẫn biết rằng trong chặng đường lịch sử thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta cũng không tránh khỏi những yếu kém, sai lầm, khuyết điểm và giờ đây sự nghiệp xây dựng CNXH đang phải đối mặt với không ít những nguy cơ, thách thức.
Tuy nhiên với một tư duy dám nhìn thẳng vào sự thật, dám nghĩ, dám làm, dám nhận khuyết điểm, Đảng, Nhà nước ta đã, đang và sẽ đưa ra được những giải pháp, biện pháp đúng đắn, kịp thời để sửa chữa và sửa chữa có kết quả những hạn chế, khuyết điểm đã được nhận diện, biến nguy cơ, thách thức thành những thời cơ, mà trên tất cả bằng việc củng cố sự tin tưởng, ủng hộ của nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Nhiệm vụ then chốt và có ý nghĩa quyết định là xây dựng Đảng ta thật trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao. Đảng cần làm tốt bổn phận "là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân", xây dựng được hình ảnh người cán bộ, đảng viên trong sạch, liêm khiết "vừa hồng vừa chuyên"; có đường lối chiến lược đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, thay đổi của thế giới và thực tiễn của đất nước; xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; xây dựng được một Chính phủ kiến tạo, liêm chính hoạt động hiệu lực, hiệu quả…
Với một dân tộc có truyền thống văn hiến, đoàn kết, kiên cường, cần cù, thông minh, sáng tạo do Đảng Cộng sản Việt Nam bản lĩnh, trí tuệ, trách nhiệm lãnh đạo, "con tàu" Việt Nam sẽ tiếp tục vững vàng vượt qua mọi sóng gió, mà trước hết sẽ tiếp tục giành chiến thắng trong cuộc chiến chống đại dịch Covid-19 tái bùng phát đang diễn ra từ cuối tháng 7/2020 để tiến về phía trước, đưa nhân dân Việt Nam sớm cập bến thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vững bước đi lên CNXH.