Chính phủ đề xuất xoá gần 16.400 tỷ đồng nợ thuế “khó đòi”
- Tây Y
- 22:08 - 22/10/2019
Báo cáo trước Quốc hội sáng 22/10, Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết, cơ quan quản lý thuế đã có nhiều nỗ lực trong việc thu hồi nợ đọng thuế nhưng số thuế nợ vẫn cao, hơn 88.250 tỷ đồng đến cuối tháng 8, tăng 8,2% so với cuối năm 2018. Trong đó, tiền nợ thuế không còn khả năng nộp ngân sách gần 43.000 tỷ đồng (gần 2 tỷ USD), chiếm xấp xỉ 49% tổng số tiền nợ thuế.
Phần lớn tiền nợ thuế do người nộp thuế chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, hoặc doanh nghiệp giải thể, phá sản... Chiếm nhiều nhất trong số này là tiền nợ thuế của doanh nghiệp, cá nhân đã bỏ địa chỉ kinh doanh, gần 24.200 tỷ đồng, và một nửa trong số này là tiền phạt chậm nộp, chậm nộp – Báo vnexpress đưa tin.
Ngoài ra, theo quy định Luật Quản lý thuế, đối tượng nợ thuế bị phạt 0,03% một ngày trên số tiền thuế chậm nộp, nên tới hết tháng 8/2019 số tiền này gần 16.400 tỷ đồng và không có khả năng thu hồi. "Luật Quản lý thuế hiện hành không cho phép xử lý nợ với các khoản chưa đủ điều kiện 10 năm, do đó số thuế nợ đọng này là nợ ảo, không còn khả năng thu vào ngân sách", Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết.
"Các trường hợp nợ thuế hầu hết phát sinh trước ngày Luật Quản lý thuế mới có hiệu lực, nên Chính phủ thấy cần thiết phải báo cáo Quốc hội cho cơ chế xử lý bằng một Nghị quyết về khoanh tiền nợ thuế, xoá tiền phạt chậm nộp, chậm nộp với người không còn khả năng nộp ngân sách", Bộ trưởng Tài chính nêu.
Cụ thể, Chính phủ đề nghị được khoanh và không hồi tố với các khoản nợ phát sinh trước ngày 1/7/2020 và xoá số nợ thuế gần 16.400 tỷ đồng tiền phạt chậm nộp, chậm nộp.
Tuy nhiên, Ủy ban Tài chính ngân sách cho rằng Chính phủ cần đánh giá kỹ hơn về trách nhiệm của cơ quan thuế khi để tình trạng nợ đọng thuế kéo dài qua nhiều năm. Chính phủ cần đánh giá kỹ hơn về trách nhiệm chủ quan của các cơ quan, cá nhân liên quan khi để xảy ra tình trạng nợ đọng thuế lớn, kéo dài qua nhiều năm và có đánh giá tác động cụ thể khi xoá khoản nợ này.
Theo baochinhphu, trình bày Tờ trình về dự thảo Nghị quyết khoanh tiền nợ thuế, xóa tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách Nhà nước, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng lý giải về sự cần thiết ban hành Nghị quyết.
Thứ nhất, thực hiện chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Văn bản số 2667/TB-TTKQH ngày 19/3/2019, Chính phủ đã hoàn thiện Luật Quản lý thuế sửa đổi trình Quốc hội ban hành Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14. Tại Luật này đã quy định đầy đủ các đối tượng được xử lý nợ (chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, giải thể, phá sản, bị thiên tai, bất khả kháng...) và các điều kiện xử lý, thẩm quyền xử lý nợ. Tuy nhiên, Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 có hiệu lực thi hành từ 1/7/2020, vì vậy đối với các khoản nợ phát sinh trước ngày 1/7/2020 không được hồi tố để xử lý.
Thứ hai, Luật Quản lý thuế hiện hành quy định 3 trường hợp được xóa nợ thuế nhưng phải đáp ứng được điều kiện là phải thực hiện tuần tự các biện pháp cưỡng chế nợ và khoản nợ thuế đủ 10 năm. Hầu hết các khoản nợ hiện nay chưa đủ điều kiện 10 năm nên không được xử lý nợ; trong khi đó đối với các trường hợp người nộp thuế đã chết, đã mất tích, giải thể, phá sản, ngừng bỏ hoạt động kinh doanh, thực tế không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước nhưng vẫn phải tính tiền phạt và tiền chậm nộp. Số nợ này là nợ ảo, không còn khả năng thu vào ngân sách.
Theo Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 thì các đối tượng này được khoanh nợ. Tuy nhiên, Luật Quản lý thuế hiện hành không có quy định khoanh nợ. Đây là trường hợp phát sinh trước ngày Luật Quản lý thuế mới có hiệu lực, nhưng lại chưa được quy định tại Luật Quản lý thuế hiện hành, vì vậy Chính phủ thấy cần thiết phải báo cáo Quốc hội cho cơ chế xử lý.
Thứ ba, Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 trước đây quy định tiền phạt, phạt chậm nộp, tuy nhiên theo quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính yêu cầu phải tách 2 hành vi, phạt vi phạm hành chính và tiền chậm nộp. Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 có hiệu lực từ 1/7/2013 đã điều chỉnh hành vi chậm nộp tiền thuế bị "phạt chậm nộp" thành "tiền chậm nộp". Do đó, đối với các khoản "tiền chậm nộp" theo Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 đến nay chưa có cơ chế xử lý (Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 không có điều khoản chuyển tiếp xử lý số nợ đọng này).
Thứ tư, Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 quy định đối với các trường hợp gặp thiên tai bất khả kháng thì được miễn xử phạt vi phạm pháp luật đối với hành vi chậm nộp tiền thuế hay còn gọi là "phạt chậm nộp". Tuy nhiên, Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 thì không có quy định miễn đối với "tiền chậm nộp". Vì vậy, đối với một số khoản tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp thuộc các trường hợp gặp thiên tai bất khả kháng phát sinh tiền chậm nộp chưa được xử lý. Vì vậy, Chính phủ thấy cần báo cáo Quốc hội để có cơ chế xử lý.
Thứ năm, các khoản nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp phát sinh do ngân sách nhà nước chưa thanh toán cho người nộp thuế cung ứng hàng hoá, dịch vụ được thanh toán trực tiếp bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước thì theo quy định tại Luật Quản lý thuế và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế, từ ngày 1/1/2011 nếu người nộp thuế chưa được thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản thì được gia hạn nộp thuế tối đa 2 năm; đến Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế có hiệu lực từ ngày 1/1/2015 đã có quy định không tính tiền chậm nộp cho những đối tượng này. Tuy nhiên, còn một số trường hợp phát sinh trước ngày 1/1/2011 đến nay còn nợ đọng tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp chưa được xử lý, cần có cơ chế xử lý, đồng thời cần quy định rõ không chỉ nhà thầu chính mà cả nhà thầu phụ được quy định trong hợp đồng ký với chủ đầu tư.
"Từ tình hình trên, Chính phủ thấy rằng việc báo cáo Quốc hội có biện pháp để xử lý nợ đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước là cần thiết, tạo cơ sở pháp lý để xử lý nợ tồn đọng trước ngày 1/7/2020 mà không còn khả năng thu nộp ngân sách nhà nước", Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng phát biểu.