Bài học từ Hiệp định Pari
- Tây Y
- 22:17 - 19/02/2018
Hiệp định Pari năm 1973
Sau thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, ta chủ trương mở thêm mặt trận tiến công ngoại giao.
Mục đích đấu tranh ngoại giao của ta là đòi Mỹ phải chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, đi đến thương lượng ở bàn hội nghị để ký hiệp định chấm dứt chiến tranh Việt Nam.
Do thất bại ở hai miền nước ta, Mỹ buộc phải chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc từ từng phần (31/1/1968), đến toàn bộ (1/11/1968), rồi đến bàn hội nghị đàm phán với đại diện Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa (13-5-1968), sau đó đàm phán cả với đại diện Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (25/1/1969).
Tại phiên họp đầu tiên (13/5/1968) để đạt được giải pháp Hiệp định Pari (27/1/1973), Hội nghi hai bên (Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hoa Kỳ) và bốn bên (Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hoa kỳ, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Việt Nam cộng hòa) ở Pari trải qua nhiều phiên họp chung công khai và nhiều cuộc tiếp xúc riêng.
Trong các phiên họp chung công khai cũng như trong các cuộc tếp xúc riêng, phía Việt Nam không bỏ qua bất cứ vấn đề quan trọng nào có liên quan đến cuộc chiến tranh, nhưng tập trung mũi nhọn đấu tranh vào hai vấn đề mấu chốt nhất là đòi Mỹ rút hết quân viễn chinh cùng quân chư hầu khỏi miền Nam và đòi họ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam.
Phía Mỹ có quan điểm ngược lại, nhất là vấn đề rút quân, đòi quân đội miền Bắc cũng rút khỏi miền Nam, và từ chối kí dự thảo Hiệp định do phía Việt Nam đưa ra (10/1972) để rồi mở cuộc tập kích bằng máy bay chiến lược B52 vào Hà Nội, Hải Phòng trong 12 ngày đêm cuối năm 1972 với ý đồ buộc phía Việt Nam kí vào dự thảo Hiệp định do chúng đưa ra.
Nhưng Mỹ đã thất bại, Việt Nam đã đập tan cuộc tập kích bằng máy bay chiến lược B52 của Mỹ, làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không”. Thất bại của Mỹ trên chiến trường miền Nam cùng với thất bại của không quân chiến lược Mỹ trên bầu trời Hà Nội đẩy Mỹ vào thế thua không thể gượng dậy nổi, buộc chúng phải chấp nhận thất bại, nối lại đàm phán tại Pari.. Sau khi buộc phải chấm dứt hoàn toàn các cuộc ném bom bắn phá và mọi hoạt động chiến tranh khác chống miền Bắc, Mỹ cử đại diện đến Pari để nối lại đàm phán. Đứng trên tư thế người chiến thắng, phái đoàn ta tại đàm phán đã kiên quyết đấu tranh giữ nội dung cơ bản của dự thảo Hiệp định đã thỏa thuận.
Qua nhiều cuộc trao đổi, ngày 13/1/1973, bản dự thảo Hiệp định cơ bản được thông qua. Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký tắt ngày 23/1/1973 giữa đại diện hai Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Hoa Kỳ, được ký chính thức ngày 27/1/1973 giữa bốn Bộ trưởng đại diện các chính phủ tham dự Hội nghị (Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hoa Kỳ, Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam cộng hòa) tại Trung tâm các Hội nghị quốc tế Clêbe (Pari). Hiệp định Pari có hiệu lực từ ngày ký chính thức .
Cuộc đấu tranh ngoại giao trên bàn Hội nghị Pari đã kéo dài suốt 4 năm 9 tháng với 202 phiên họp công khai, hàng chục cuộc gặp riêng cấp cao, hàng trăm cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn, đã kết thúc vào ngày 27/1/1973 với “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”.
Hiệp định Pari về Việt Nam là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất của nhân dân ta ở cả hai miền đất nước, đã tạo ra bước ngoặt mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc. Với Hiệp định Pari, ta đã “đánh cho Mỹ cút”, một thắng lợi lịch sử quan trọng tạo thời cơ thuận lợi để nhân dân ta tiến lên “đánh cho ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng năm 1973 đã khẳng định: Hiệp định Pari “đã ghi lại những thắng lợi rất to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta” (ÐCSVN: Văn kiện Ðảng toàn tập, Tập 34, NXB CTQG, HN, trang 219). Đây là cơ hội lớn cho sự nghiệp cách mạng tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Thắng lợi Hội nghị Paris là tinh thần quyết chiến quyết thắng, là ý chí quật cường đấu tranh bền bỉ bảo vệ cho chân lý, giành độc lập tự do của cả dân tộc Việt Nam. Cuộc đấu tranh này phản ánh đầy đủ sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trí tuệ của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, dựa vào chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Hội nghị Pari và Hiệp định Pari mãi mãi đi vào trong lịch sử cách mạng Việt Nam nói chung và ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh nói riêng như một dấu son không bao giờ phai mờ. Hiệp định Pari còn là bằng chứng tất yếu của sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân tiến bộ toàn thế giới.
Thắng lợi Hội nghị Pari và Hiệp định Pari cách đây vừa tròn 45 năm đã để lại nhiều bài học sâu sắc, những bài học đó đã tiếp sức cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, cho cán bộ nhân dân chúng ta thêm vững bước tiến vào giai đoạn hội nhập quốc tế hôm nay. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế trong quá trình toàn cầu hóa vừa có nhiều cơ hội, vừa gặp nhiều thách thức, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Vậy nên, yêu cầu chính sách đối ngoại cần phải đúng đắn, kịp thời sẽ thúc đẩy hội nhập phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu, nâng cao thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế.