11% số vụ trẻ tự tử do bắt chước
- Y học 360
- 20:37 - 05/05/2022
Nhiều yếu tố tác động đến hành vi tự sát ở trẻ
Tại buổi tọa đàm, “Tiếp cận đa ngành trong nghiên cứu, phòng ngừa và can thiệp tự sát ở trẻ em và thanh thiếu niên” do trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐH Quốc gia TP. Hồ Chí Minh) tổ chức, PGS.TS Trần Thành Nam, Trưởng khoa Khoa các khoa học giáo dục, Trường ĐH Giáo dục Hà Nội cho biết, mỗi năm trên thế giới có khoảng 41.000 người tự tử, cứ 40 giây lại có 1 người chết do tự tử.
Tại Việt Nam, thực trạng tự tử ngày càng trẻ hóa và có dấu hiệu gia tăng. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 các năm 2020 - 2022, tự tử lại càng đáng báo động khi tình trạng trầm cảm, lo âu và rối loạn tâm thần tăng 3 - 5 lần so với bình thường. Tính đến hiện tại, tự tử là nguyên nhân thứ hai gây tử vong cho nhóm tuổi 15-29, sau tai nạn giao thông. Độ tuổi tự tử đang ngày càng trẻ hóa.
Theo PGS.TS Trần Thành Nam, gia đình gặp khủng hoảng tài chính, trẻ em và thanh thiếu niên bị cắt giảm chi tiêu hoặc đối xử hà khắc thường đi đến quyết định tự tử. Trong số các vụ tự tử thành công ở trẻ em và thanh thiếu niên, hành vi bắt chước từ vụ tự tử trước đó chiếm 11%.
Cách thức tự tử phổ biến ở đối tượng trẻ dưới 15 tuổi là nhảy từ các tòa nhà cao tầng hoặc chạy vào dòng xe cộ. Trẻ trên 15 tuổi thường tự tử bằng ma túy hoặc treo cổ. Có nhiều yếu tố tác động đến hành vi tự sát ở trẻ. Theo đó, về mặt cá nhân, hầu hết trẻ em đều sử dụng mạng xã hội ảo để làm quen, nói chuyện với bạn bè. Khi gặp vấn đề cần sự hỗ trợ, chia sẻ trực tiếp, trẻ không có ai bên cạnh, dẫn đến dễ có hành vi tự sát.
Ths Nguyễn Thị Thanh Tùng, Khoa Công tác xã hội, ĐH Khoa học xã hội và nhân văn (ĐH Quốc gia TP. Hồ Chí Minh) nhận định, ở trường học các vấn đề như bạo lực học đường, đặc biệt là hình thức bắt nạt trực tuyến cũng đẩy trẻ em vào nguy cơ tự sát. Thời gian nghỉ học do dịch Covid-19, trẻ tiếp cận với nhiều nguồn thông tin khác nhau, dễ dàng bắt chước các hành vi tự sát trên mạng xã hội.
Ngoài ra, khi thay đổi hoàn cảnh sống, trẻ có chỉ số thích nghi xã hội thấp thường cảm thấy chông chênh, không thể đối mặt với khó khăn và chọn con đường tự chấm dứt cuộc đời. Một yếu tố khác dẫn đến hành vi tự sát ở trẻ là áp lực học tập và điểm số. "Hiện nay, bố mẹ, thầy cô, xã hội đặt rất nhiều kỳ vọng vào trẻ. Kỳ vọng quá cao này khiến các em đuối sức, khi chịu đựng không nổi, trẻ đưa ra quyết định muốn giải thoát", bà Tùng nói.
Cần sự chăm sóc đa ngành
Để giảm tự tử ở trẻ và thanh thiếu niên, PGS.TS Trần Thành Nam nhấn mạnh vai trò của gia đình, theo đó, khi thấy con có dấu hiệu nguy cơ, bố mẹ cần ứng xử phù hợp như: Ở lại với con, đảm bảo môi trường an toàn, hạn chế các chất kích thích mà con có thể tiếp cận, sau đó kết nối trẻ với dịch vụ sức khỏe tâm thần.
"Bố mẹ phải lắng nghe con, đừng nói với trẻ là “thử chết được không”. Một câu nói lúc nóng giận hoặc vô tâm của bố mẹ có thể không cứu được mạng sống của trẻ. Chúng ta phải hiểu việc bên cạnh trẻ trong khoảng thời gian con chịu khủng hoảng là vốn quý nhất để giúp trẻ cân bằng lại tâm lý", ông Nam nói.
ThS Nguyễn Thị Thanh Tùng cho rằng, cần nhìn nhận các yếu tố nguy cơ đối với hành vi tự sát ở trẻ em và thanh thiếu niên đến từ chính cá nhân và bên ngoài. Cũng như tăng cường nguồn nhân lực về chất lượng và số lượng ở tất cả các cấp thông qua đào tạo, đặc biệt đối tượng tư vấn viên, bác sĩ tâm thần, chuyên gia tâm lý. “Bộ GD&ĐT cần tăng cường vai trò nòng cốt trong hỗ trợ sức khỏe tinh thần, tâm lý xã hội của trẻ em và thanh thiếu niên. Bộ cần dạy kỹ năng cần thiết để trẻ ứng phó với khó khăn về cảm xúc và giảm bớt áp lực học tập cho các em. Bên cạnh đó, Bộ GD&ĐT cũng cần đầu tư xây dựng, phát triển mô hình phòng tham vấn tâm lý học đường, phòng công tác xã hội ở tất cả trường học”, Ths Thanh Tùng nói.
Ths, bác sĩ Giang Ngọc Thụy Vy, Trưởng khoa Tâm lý y học Bệnh viện Tâm thần TP. Hồ Chí Minh cho rằng rất cần sự chăm sóc đa ngành, đặc biệt là hầu hết trẻ vị thành niên sẽ không chịu nhập viện, các con vẫn trở về đi học và ở nhà nên việc phối hợp với gia đình, trường học là rất quan trọng. “Điều thật sự cần là một tiến trình, ngay từ ban đầu cần xây dựng cho mỗi người có khả năng hồi phục trước những thay đổi, biến cố trong cuộc sống. Hệ thống phòng ngừa cần được xây dựng từ trong gia đình, cộng đồng, trường học… Đến khi có vấn đề xảy ra, chúng ta đã sẵn có để kích hoạt các lực lượng để can thiệp, như: Bệnh viện, phòng khám hay những đường dây hỗ trợ về vấn đề khủng hoảng, tự sát”, bác sĩ Thụy Vy chia sẻ.